TRI THỨC CĂN BẢN ĐỂ HIỂU DỤNG NGỮ PHẬT HỌC
Thanh Trì
soạn dịch và gia bút
2025
Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM
Lưu hành nội bộ
1.1. Phật giáo nhị thừa, tam thừa
1.1.3. Sự khác nhau giữa Tiểu thừa và Đại thừa:
1.2. Phật giáo nguyên thuỷ, Phật giáo bộ phái, Phật giáo Đại thừa
1.3. Phật giáo Nam truyền, Phật giáo Bắc truyền
2.1.2. Tam thế thập phương chư Phật
2.2.1. Hệ thống ngôn giáo – thánh điển
2.2.1.1. Chín phần giáo và mười hai phần giáo
2.2.1.2. Tam tạng kinh luật luận
2.2.2. Những giáo lý đã tuyên thuyết
2.3.1. Khởi nguyên của từ Tăng saṅgha
2.3.4. Định nghĩa về tăng-già trong kinh A-hàm
Chương 4. Tam pháp ấn, tứ pháp ấn
Mọi giáo thuyết của Phật giáo đều là nói về duyên khởi
Ngoại duyên khởi, nội duyên khởi
A. Các chi của thuyết duyên khởi
6.0.3. Tứ đế và nguyên lý trị bệnh
7.1. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo:
Giai vị tu hành của thuyết nhất thiết hữu bộ
Giai vị tu hành của bồ-tát đại thừa
LỜI ĐẦU
Nội dung sách này được soạn dịch chủ yếu dựa trên những tri thức Phật học của học giới hiện đại. Phần lớn từ 『仏教用語の基礎知識』 (Tri thức Căn Bản về Dụng ngữ Phật giáo) của tác giả 水野弘元 (Mizuno Kogen) được xuất bản bởi春秋社 (Shunjusha) năm 1972. Mục đích giới thiệu tri thức cơ bản để hiểu Phật học cho sinh viên Phật học ở cấp cử nhân.
Như tên đề, sách này chủ yếu trình bày các tri thức căn bản của Phật giáo học, chú trọng phần giải thích các thuật ngữ liên quan. Vì đặc trưng chú trọng giải thích thuật ngữ Phật học căn bản, nên khá phù hợp cho người mới bắt đầu. Vốn dĩ là tác phẩm có uy tín, được tin cậy chọn dùng làm giáo tài cho sinh viên mới học Phật học tại Nhật Bản. Nhưng do vì được xuất bản đã lâu, nên có vài chỗ tri thức không còn phù hợp nữa, nơi những chỗ như vậy soạn giả hoặc lược đi, hoặc thêm giải thích vào, phần gia bút như vậy sẽ được bắt đầu bằng dấu *.
CHƯƠNG 1. PHẬT GIÁO
1.0. Định nghĩa
Phật giáo là “lời dạy của Phật”, là “tôn giáo được tuyên thuyết bởi Phật-đà”. Do đó, Phật giáo là tôn giáo tôn thờ và kính tín đức Phật.
Phật là Phật-đà, là dịch âm của từ buddha tiếng Ấn Độ, dịch nghĩa cho từ này là “người đã giác ngộ”, tức người đã giác ngộ chân lý, sự thật về con người, về xã hội. (*cụ thể về Phật-đà sẽ có ở chương 2).
Cũng có thể hiểu rằng, Phật giáo là “tôn giáo nói về con đường để thành Phật-đà - người giác ngộ”.
Việc lý giải rằng, với giáo lý Phật giáo thì tất cả người tu hành đều có thể thành Phật, là lý giải kể từ thời Phật giáo Đại thừa trở đi, nhưng nếu giải thích Phật-đà là nhân vật có nhân cách hoàn hảo nhất thì, vì Phật giáo có mục đích hoàn thành nhân cách như thế, nên có thể nói, Phật giáo là “tôn giáo nói về con đường để trở thành Phật-đà - người giác ngộ”.
*Kế đến sau đây là giải thích Phật giáo theo phân loại. Có ba phân loại dưới đây với những tên gọi ứng với các phương diện lịch sử của Phật giáo. Trong đó, 1.1 “Phật giáo Nhị thừa, Tam thừa” vốn là thuật ngữ xuất hiện trong các điển tịch cổ xưa, đây được xem là phân loại đầu tiên, được ghi chép rộng rãi trong nhiều kinh luận của Phật giáo, tạm gọi đây là sự phân loại về mặt tư tưởng. Mục 1.2 “Phật giáo nguyên thuỷ, Phật giáo Bộ phái, Phật giáo Đại thừa” là cách phân loại theo chiều dài lịch sử của các nhà nghiên cứu cận-hiện đại. Phân loại ở mục 1.3 “Phật giáo Nam Truyền, Phật giáo Bắc Truyền” là phân theo thực tế truyền giáo về mặt địa lý trong lịch sử truyền bá Phật giáo.
1.1. Phật giáo nhị thừa, tam thừa
a. Nhị thừa
Nhị thừa là Tiểu Thừa và Đại Thừa, cũng là Thanh Văn Thừa và Bồ-tát thừa. Thanh văn là Tiểu Thừa, Bồ-tát là Đại thừa.
Thừa (Yāna) ở đây có ý nghĩa là phương tiện dùng để di chuyển, Phật giáo là phương tiện để con người từ cõi mê bên này (hiện thực giới) qua được cõi giác bên kia (lý tưởng giới), từ ví dụ phương tiện di chuyển như vậy mà gọi Phật giáo là thừa (yāna).
Và ngoài ra, dụng ngữ nhị thừa không chỉ dùng để chỉ cho Tiểu Thừa và Đại Thừa, hay Thanh Văn Thừa và Bồ-tát thừa, mà cũng có trường hợp gọi chính bản thân Tiểu thừa là Nhị thừa. Trong trường hợp Nhị thừa này là chỉ cho Thanh văn thừa và Độc giác thừa, tức là 2 trong 3 thừa sẽ trình bày ở sau.
1.1.1. Phật giáo Tiểu thừa:
Tiểu thừa (hīna-yāna) cũng còn gọi là liệt thừa (thừa thấp kém), mang ý nghĩa là cỗ xe nhỏ. Được cho rằng, vì đó là giáo học tự lợi để hoàn thành việc tu hành cho chỉ riêng mình, cứu bạt cho riêng mình, nên gọi là tiểu thừa. Và cũng gọi là Thanh văn thừa (śrāvaka-yāna). Bởi vì chỉ nghe thuyết pháp mà chứng ngộ.
*Danh xưng Tiểu thừa hay Thanh văn thừa là cách gọi của phía Phật giáo Đại thừa đối với Phật giáo bộ phái theo ý nghĩa xem nhẹ. Cách nói này ngày nay không còn được dùng. Nhưng đây là một thực tế đã xảy ra trong lịch sử Phật giáo. Và cần lưu ý rằng, việc này chỉ xảy ra trong nội bộ Phật giáo Bắc truyền, Phật giáo Nam truyền do có địa lý truyền giáo riêng nên có lẽ không liên quan.
1.1.2. Phật giáo Đại thừa:
Đại thừa (Mahāyāna) có từ dịch âm là ma-ha-diễn, ý nghĩa là cỗ xe lớn, cỗ xe ưu việt. Được cho rằng, vì là giáo học không chỉ tự lợi để hoàn thiện việc tu hành cho riêng mình, mà còn có nhiệm vụ cứu bạt và giúp tha nhân hoàn thành việc tu hành của họ, nên gọi là tự lợi lợi tha. Không chỉ tự lợi cho mình, mà kiêm cả tự lợi và lợi tha, nên là Đại thừa. Lý tưởng của thừa này là thành tựu quả Phật, sau khi đã hoàn thành công hạnh tự lợi lợi tha.
Đại thừa cũng là chỉ cho Bồ-tát thừa (Bodhisattva-yāna) hay Phật thừa (Buddha-yāna).
1.1.3. Sự khác nhau giữa Tiểu thừa và Đại thừa:
Sau thời kỳ Phật giáo Nguyên thuỷ, khoảng hơn một trăm năm sau Phật diệt, Bộ phái Phật giáo được thành lập, lập trường hoạt động của Phật giáo bộ phái dần dần mang tính hình thức, mất đi lập trường tôn giáo vốn có của Phật giáo, với ý muốn phục dựng Phật giáo theo tinh thần của đức Thích Tôn, khoảng ba - bốn trăm năm sau Phật diệt, Phật giáo đại thừa đã được đề xướng. Nơi Phật giáo Đại thừa này, có thái độ khinh miệt Phật giáo Bộ phái bằng việc sử dụng danh xưng Tiểu Thừa để gọi nhóm này, và chủ trương, chính Đại thừa mới là Phật giáo truyền trì tinh thần chân thực nhất của đức Thích Tôn.
Dưới đây là tóm tắt những điểm khác nhau giữa hai Phật giáo này.
|
|
Phật giáo Bộ phái |
Phật giáo Đại thừa Sơ kỳ |
|
1 |
Tư tưởng Thanh văn, mục đích thành A-la-hán (Thanh Văn Thừa) |
Tư tưởng Bồ-tát, mục đích là thành Phật (Bồ-tát Thừa) |
|
2 |
Tư tưởng nghiệp báo, muốn lìa bỏ cái khổ của nghiệp báo luân hồi |
Tư tưởng nguyện hành, tự mình tình nguyện muốn hướng đến ác thú để hoàn thành hạnh nguyện thành Phật |
|
3 |
Chủ nghĩa tự lợi, nỗ lực tu hành để hoàn thành giải thoát cho riêng tự thân (Tiểu thừa) |
Chủ nghĩa lợi tha, cứu độ tất cả chúng sanh và làm hướng thượng, tịnh hoá toàn thể xã hội (Đại thừa) |
|
4 |
Thái độ vướng mắc vào ngôn từ của thánh điển, câu nệ chấp vào sự vật (Hữu) |
Thái độ của không vô ngã, vô chấp trước bởi trí tuệ Bát-nhã (Không) |
|
5 |
Có khuynh hướng hướng vào lãnh vực lý luận, học vấn, và nơi lý luận ấy cũng có những chỗ không mấy liên quan đến thực tiễn (trọng lý luận) |
Coi trọng phương diện thực tiễn tín ngưỡng hơn phương diện lý luận, hay học vấn, và lý luận ở đây không phải là lý luận suông mà có cơ bản dựa vào thực tiễn (trọng thực tiễn) |
|
6 |
Chỉ giới hạn nơi giới xuất gia chuyên môn, nhưng bị phê phán là thấp kém |
Dù có cả tính chất tại gia nhưng được cho là có cảnh giới cao thâm |
Đại thừa Phật giáo đến thời Trung kỳ cũng chú trọng triết học lý luận, cũng trở nên đậm nét lý luận hơn, chuyên môn hơn. Từ điểm này mà nói thì Phật giáo ở thời trung kỳ đại thừa đã giống như tình trạng của Phật giáo bộ phái thuở trước, có thể hình dung thấy manh nha một trang lịch sử sắp diễn ra, đó là sự lớn mạnh của tín ngưỡng Mật giáo. Tuy nhiên, rõ ràng có thể nói, Phật giáo với tư cách là một tôn giáo, nó cần phải thể hiện vai trò tôn giáo của mình trong xã hội, nhưng bản chất triết học lý luận thì vốn là được xuất phát từ tư tưởng cốt tuỷ của Phật giáo. Nên hai phương diện này đều vốn phải song hành nơi tôn giáo này.
Đặc trưng của Đại thừa Phật giáo từ trung kỳ trở đi là: (1) nhấn mạnh bồ-đề tâm, (2) khảo sát theo cách triết học về Phật tánh hay Như lai tạng như thể là nguồn gốc của phát bồ-đề tâm, (3) thuyết vô ngã thì không chỉ là nhơn vô ngã mà là nhị vô ngã, tức gồm nhơn vô ngã (ngã không) và pháp vô ngã (pháp không), (4) tâm thức thì không chỉ có 6 thức, tức tâm thức thuộc bề ngoài, mà còn nói đến mạt-na thức, a-la-ya thức, tức tâm thức thuộc bề sâu, (5) khảo sát mang tính chất triết học hơn về học thuyết Bồ-tát, Phật thân, Phật quốc độ, niết-bàn, v.v… Đây là những điều đặc thù không thể thấy trong Phật giáo bộ phái hay Phật giáo đại thừa sơ kỳ.
Tuy nhiên, về sự khác biệt đặc trưng giữa Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa thì có thể nhìn vào những điểm khác nhau giữa Phật giáo bộ phái và Phật giáo Đại thừa sơ kỳ ở biểu trên. Sau đây sẽ giải thích đơn giản về 6 điểm ấy.
[1] Thanh văn thừa và Bồ-tát thừa: Từ khoảng sau Phật diệt độ hơn một trăm năm, đến thời đại Phật giáo bộ phái thì vị khai sáng Phật giáo là Phật-đà đã được thần cách hoá, trở nên vĩ đại, là đấng hoàn toàn cách tuyệt với con người, sự tồn tại và nhân cách của Phật-đà về cơ bản là hoàn toàn khác biệt với chư đệ tử. Cụ thể là lý giải rằng, Phật-đà có mười tám pháp bất cộng, ba mươi hai tướng tốt tám mươi thứ hảo (tướng hảo của bậc vĩ nhân) mà chư đệ tử không có. Đó là do vì Phật-đà khi còn trong thời kỳ làm bồ-tát, trải qua ba a-tăng-kỳ trăm đại kiếp, đã tích tập nhiều thiện hạnh về ba-la-mật, v.v… Còn chư đệ tử Phật thì chỉ là nghe giáo huấn của Phật, và theo đó tu hành, nhưng với việc tu hành chừng ấy thì không thể trở thành Phật-đà, mà nhiều nhất thì cũng chỉ có thể đạt được quả A-la-hán, quả vị chứng ngộ cao nhất của thanh văn.
Mười tám pháp bất cộng, ba mươi hai tướng tám mươi thứ hảo, và quả vị chứng ngộ của Thanh văn sẽ có trong chương hai.
Ba a-tăng-kỳ trăm đại kiếp, cũng nói lược là tam kỳ bách kiếp, nghĩa là ba a-tăng-kỳ kiếp và trăm đại kiếp. Kiếp (kalpa) gồm có tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp. Đại khái chỉ cho khoảng thời gian rất lâu dài. A-tăng-kỳ là dịch âm của asaṃkheya, nghĩa là “không thể đếm được”, tức chỉ cho con số mà con người không thể đếm biết. Ý nói bồ-tát tu hành để chuẩn bị cho việc thành Phật là trải qua thời gian rất lâu dài.
Khác với Phật giáo bộ phái, trong Phật giáo đại thừa vì “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, nên khi đã phát bồ-đề tâm rồi thì có thể thành bồ-tát. Với việc có thệ nguyện và có sự tự giác với tư cách là bồ-tát, nếu tu hành tích tập lớn dần các công hạnh như ba-la-mật-đa v.v…. thì ai cũng có thể thành Phật. Trong đời này cho dù chưa thành Phật, nhưng trong tương lai ở kiếp sống nào đó sẽ thành. Nếu có sự tự giác, quyết chí và nỗ lực, thì tuyệt đối không được tự ti, mà cần phải có niềm tin lớn vào bản thân thì có thể tiến tu với tư cách là bồ-tát. Ở đây, chí khí của thanh văn thừa và bồ-tát thừa có khác nhau.
Trong Đại thừa có nói: “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh” là nói đến việc có Phật tánh với tư cách là năng lực hay tánh chất có thể giác ngộ, thành Phật.
Bồ-đề tâm cũng gọi là đạo tâm, là tâm cầu bồ-đề, cầu giác ngộ. Người đã phát bồ-đề tâm rồi thì được gọi là bồ-tát. Bồ-tát đồng thời có bốn hoằng thệ nguyện. Bốn hoằng thệ nguyện là [1] chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, [2] phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, [3] pháp môn vô lượng thệ nguyện học, [4] Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Bồ-tát là từ nói lược của bồ-đề-tát-đoả (bodhisattva), cũng được dịch là giác hữu tình. Bồ-đề (bodhi) là giác, tát-đoả (sattva) là hữu tình hay chúng sanh. Tức là người cầu sự giác ngộ, và cũng bao hàm ý nghĩa là người làm giác ngộ cho kẻ khác, nên gọi là tự giác giác tha.
[2] Tư tưởng nghiệp báo, tư tưởng nguyện hành:
Theo giáo lý của thanh văn, quả vị tối cao của sự giác ngộ là A-la-hán, là sự thoát ly cảnh giới khổ của luân hồi, đạt đáo cảnh giới niết-bàn lý tưởng, an ổn, không khổ đau là mục đích tối hậu. Nhưng cảnh giới tối cao lý tưởng này là vô dư y niết-bàn, là trạng thái đạt được sau khi chết của nhục thể, và đã thoát ly luân hồi. Đây là lý tưởng vốn được thiết lập dựa trên lý nhân quả của tư tưởng nghiệp báo, và thanh văn thừa đặt mục đích vượt thoát cái khổ luân hồi, đạt được cái vui niết-bàn. Tuy nhiên, đây là vấn đề của chỉ riêng bản thân của một người.
Đối lại, việc tu hành của bồ-tát trong đại thừa thì từ khi lần đầu tiên phát bồ-đề tâm đã có hạnh nguyện rằng, dù bản thân chưa thành tựu quả vị cuối cùng cũng dìu dắt chúng sanh cùng đi trên con đường hướng đến quả vị giác ngộ, nên không chán ghét cái khổ của sanh tử luân hồi, không cầu cái vui của niết-bàn bất tử như tiểu thừa, mà tự mình muốn hướng đến thế giới khổ để cứu giúp những người đang chịu khổ. Nơi vị ấy, vấn đề không phải là khổ hay lạc, luân hồi hay niết-bàn, mà chỉ có hạnh nguyện bồ-tát là cứu độ chúng sanh. Cần phải phân biệt biết rõ rằng, đó là ý thức tự chủ tự mình muốn như vậy, không phải là do vì sự thúc đẩy của tư tưởng nhân quả nghiệp báo khổ-lạc.
Luân hồi (saṃsāra) cũng còn gọi là sanh tử, trong khi còn ở trạng thái phàm phu mê muội, bị chi phối bởi nghiệp báo thiện ác, người tạo thiện nghiệp thì được sanh vào thiện thú (thiện đạo) như cõi trời, cõi người, thọ hưởng quả phước lạc; người tạo nghiệp ác thì bị sanh vào ác thú (ác đạo), như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, mà thọ khổ. Năm đạo trên đây cùng với tu-la (a-tu-la) là sáu đạo. Có thuật ngữ lục đạo luân hồi là nghĩa như vậy. Tư tưởng luân hồi này vốn là tư tưởng phổ biến thông thường của Ấn Độ, từ trước thời kỳ Phật giáo và cả cho đến ngày nay.
Niết-bàn là dịch âm của nirvāṇa (nibbāna), cũng được dịch là tịch hay tịch diệt. Trước thời Phật giáo, cũng được gọi là bất tử (amṛta, amata), chỉ cho trạng thái lý tưởng siêu việt khỏi sanh tử luân hồi. Niết-bàn có nghĩa là sự diệt tận tất cả phiền não tham sân si, nir-vā-ana là sự thổi tắt, tức sự thổi tắt hoàn toàn ngọn lửa phiền não, tức nói đến cảnh địa giác ngộ tối cao.
Trong thời kỳ Phật giáo bộ phái, có hai loại niết-bàn là hữu dư y và vô dư y. Hữu dư y niết-bàn là niết-bàn thuộc tâm trong khi vẫn còn “cái còn lại” là nhục thể nghiệp báo, Vô dư y niết-bàn là niết-bàn (sự diệt tận) của tất cả thân tâm, cái còn lại của nhục thể cũng không còn, là chỉ cho niết-bàn hoàn toàn. Tư tưởng này có ảnh hưởng từ ngoại giáo chứ không thể nói là hoàn toàn của Phật giáo. Tuy nhiên việc tử diệt về nhục thể của đức Thích Tôn thì là vô dư niết-bàn, gọi đó là bát-niết-bàn (parinirvāna, parinibbāna, sự viên tịch, niết-bàn hoàn toàn).
Đến thời Phật giáo đại thừa, có tự tánh thanh tịnh niết-bàn và vô trụ xứ niết-bàn thêm vào với hai loại niết-bàn ở trên, làm thành Bốn loại niết-bàn. Trong đó, tự tánh thanh tịnh niết-bàn là chỉ cho Phật tánh, do vì Phật tánh tức tự tánh thanh tịnh tâm có đủ đức tánh thường lạc ngã tịnh, nên gọi Phật tánh mà vốn là đồng đẳng với bổn lai niết-bàn là niết-bàn. Vô trụ xứ niết-bàn là niết-bàn mà không trụ trong sanh tử cũng không trụ trong niết-bàn, không chán ghét sanh tử cũng không hân thích niết-bàn, không chấp trước sanh tử hay niết-bàn, là trạng thái toàn tâm toàn ý trong hoạt động từ bi cứu tế chư chúng sanh. Trong Phật giáo, Niết-bàn lý tưởng chân thật chính là vô trụ xứ niết-bàn này.
[3] “Tiểu thừa” và “Đại thừa”:
Giáo học của thanh văn là để hoàn thành sự tu chứng của bản thân nên giáo học căn bản là tứ đế và bát thánh đạo. Nếu đạt được tứ đế bát thánh đạo thì hoàn thành đủ nhân cách tu chứng của bản thân, và đồng thời chính điều đó cũng là hoạt động vì người khác. Vị a-la-hán đã đạt được quả vị tối cao của thanh văn thì không phải chỉ là một độc giác nghiêng về tự lợi, mà cũng giáo hoá cứu độ con người trong thế gian. Như chính bản thân từ A-la-hán (arhan, arahan) cũng được dịch là ứng cúng, có ý nghĩa là vị ấy có đủ tư cách nhận sự tôn kính và cung dưỡng từ con người trong thế gian. Vì A-la-hán là giáo hoá thế gian, ban bố cho người thế gian những phước đức lợi lạc, nên cũng có tư cách thọ nhận sự tôn kính từ con người trong thế gian.
Với điểm này thì A-la-hán không phải là người độc thiện, hoàn toàn không giao thiệp với thế gian, và phê phán của phía đại thừa rằng thanh văn chỉ vì mục đích tu hành tự lợi là không thoả đáng. Tuy nhiên, bộ phái Phật giáo (tiểu thừa) trong bối cảnh của cuộc vận động Phật giáo đại thừa có lẽ đã quá chuyên biệt và hình thức, bỏ quên tính tôn giáo của đạo Phật là giáo hoá dẫn dắt con người trong thế gian, nên đã xảy ra sự phê phán như trên. (Về ý nghĩa a-la-hán ứng cúng sẽ có trong chương hai).
Để hoàn thành nhân cách tu hành của cá nhân thì với giáo lý tứ đế, bát thánh đạo là đã đủ, nhưng trong Phật giáo đại thừa thì chỉ chừng đó là chưa đủ, nói đến phương pháp tu hành của bồ-tát thì không phải là bát thánh đạo mà là sáu ba-la-mật, xem như là phương pháp tu hành đặc biệt riêng của bồ-tát. Đó là vì bát chánh đạo chỉ bao hàm các hạng mục tu hành để hoàn thành tự lợi chứ không phải để lợi tha, còn sáu ba-ba-mật bao hàm những hạng mục mang tính chất vì xã hội như bố thí, nhẫn nhục mới thích hợp là phương pháp tu hành của bồ-tát.
Trong phương pháp tu hành sáu ba-la-mật, trước tiên là bố thí, tức con người trong xã hội cần thực hành những việc từ thiện bố thí hỗ trợ cho nhau, đó là hạng mục quan trọng nhất trong Phật giáo đại thừa. Do đó mà cho rằng đại thừa là cỗ xe lớn, giáo lý của thừa này là cứu tế cho số đông nhiều người, bộ phái Phật giáo là cỗ xe nhỏ (tiểu thừa), tức chỉ hướng đến mục đích tu dưỡng hoàn thành nhân cách của một cá nhân.
Bát chánh đạo và sáu ba-la-mật có những điểm tương đồng và bất đồng như biểu sau. Trong đó có thể thấy, sáu ba-la-mật ngoài việc bao hàm được toàn bộ bát chánh đạo, còn có hạng mục bố thí và nhẫn nhục mà trong bát chánh đạo không có. Hai hạng mục này là mục mang tính chất xã hội, có thể nói, đó là những mục tiêu biểu chỉ cho đặc trưng của đại thừa lợi tha hành.
|
Bát chánh đạo |
Đối ứng với lục ba-la-mật |
|
1. Chánh kiến |
6. Trí huệ |
|
2. Chánh tư duy |
|
|
3. Chánh ngữ |
2. Trì giới |
|
4. Chánh nghiệp |
|
|
5. Chánh mạng |
|
|
6. Chánh tinh tấn |
4. Tinh tấn |
|
7. Chánh niệm |
5. Thiền định |
|
8. Chánh định |
|
|
|
1. Bố thí |
|
|
3. Nhẫn nhục |
Sáu ba-la-mật và mười ba-la-mật: Như trên đã thấy sáu ba-la-mật là bố thí (dāna), trì giới (śīla), nhẫn nhục (kṣānti), tinh tấn (vīrya), thiền định (dhyāna), trí huệ (prajñā). Thêm phương tiện (upāya), nguyện (praṇidhāna), lực (bala), trí (jñāna) vào là mười ba-la-mật.
*Ba-la-mật cũng được dịch âm là ba-la-mật-đa (pāramitā), dịch nghĩa là độ, độ vô cực, đáo bỉ ngạn, v.v… Nếu hiểu từ này là pāram (đến bỉ ngạn) + ita (đi đến) thì là “đáo bỉ ngạn”, tức nhờ thực hành ba-la-mật mà có thể từ sanh tử luân hồi thuộc bờ bên này đạt đáo đến cảnh giới lý tưởng bồ-đề niết-bàn thuộc bờ bên kia. Ý nghĩa này là theo giải thích xưa nay trong truyền thống. Tuy nhiên, hiện tại có nhiều thuyết lý giải khác, có thể, khi thuật ngữ này được Sanskrit hóa trở lại từ các ngôn ngữ Prākrit (như Pāli), người ta đã lấy gốc từ pārami- (ảnh hưởng bởi pāramī) rồi thêm hậu tố -tā để tạo thành một danh từ chỉ tính chất (tính tối cao, tính hoàn hảo/hoàn thành), gần nghĩa với độ vô cực trong cổ Hán dịch. Với từ ba-la-mật được thêm vào thì bố thí có ý nghĩa là bố thí tối cao, trí tuệ là trí tuệ tối cao. Tức bố thí tối cao tối thiện, cho đến trí tuệ tối cao tối thiện, gọi là lục ba-la-mật. Do đó, bát-nhã ba-la-mật được dịch trong tiếng Anh là perfection of wisdom.
Mười ba-la-mật của Phật giáo phương Nam: Trong Phật giáo Pāli Thượng Toạ bộ có nói đến 10 ba-la-mật (dasa-pāramī) là phương pháp tu hành của bồ-tát nhưng có khác với trên. Đó là 1. thí (dāna), 2. giới (śīla), 3. xuất ly (nekkhamma), 4. tuệ (pañña), 5. tinh tấn (viriya), 6. nhẫn nhục (khanti), 7. đế (sacca), 8. quyết ý (adhiṭṭhāna), 9. từ (mettā) 10. xả (upekkhā). Trong Phật giáo Pāli, thời giam tu hành của bồ-tát là 4 a-tăng-kỳ trăm ngàn kiếp, tức có khác với thuyết của Phật giáo phương bắc.
Bốn nhiếp pháp: phương pháp tu hành của bồ-tát thì ngoài trên ra còn có tứ nhiếp pháp (tứ nhiếp sự), là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Đây là những hạng mục tóm tắt từ bi hành của bồ-tát với bố thí làm trung tâm.
[4] Hữu và không:
Bộ phái Phật giáo đã nghiên cứu miên mật giáo học A-tỳ-đàm, mà giáo học đó phần nhiều là về tồn tại / hữu, vốn bị Thế Tôn can ngăn không nên quan tâm. Đức Thế tôn cho rằng, với những lý luận về thực thể hữu hay vô (tồn tại luận, thực tại luận) mà các nhà ngoại đạo đương thời lấy làm vấn đề thì tuyệt đối không thể giải quyết được vấn đề của con người. Nên ngài đã ngăn cấm chư đệ tử bàn về nó. Trong Phật giáo, cái cần đặt vấn đề không phải là về bản thể, mà là về những hiện tượng đang sanh diệt biến hoá chung quanh chúng ta. Hiện tượng ấy “hiện hữu như thế nào” (trạng thái), chúng ta “nên làm thế nào” “nên ứng xử với nó thế nào” (thái độ), là điều quan trọng cần đặt vấn đề. Đó gọi là thuyết duyên khởi. Những giáo học căn bản của Phật giáo là tứ đế, bát thánh đạo, duyên khởi, v.v… đều là thuộc lập trường này.
Do vì Bộ phái Phật giáo đã bước vào nghị luận về hữu (tồn tại) như thế, và như thế thì đã trật khỏi lập trường ban đầu của Phật giáo, nên các nhà đại thừa cho rằng cần phải quay trở về lập trường đúng đắn của đức Thích Tôn. Họ nhấn mạnh cái không của bát-nhã là “hiện hữu như thế nào” “nên hiện hữu như thế nào”, và phục hoạt lại thuyết duyên khởi.
Abhidharma, abhidhamma được dịch âm là a-tỳ-đạt-ma, a-tỳ-đàm, dịch ý là luận hay đối pháp. Có ý nghĩa là “cái [giải thích] đối với pháp”, pháp ở đây là pháp Phật thuyết, là chỉ cho kinh điển, nên Abhidharma, đối pháp, là chỉ cho việc giải thích, chú giải, nghiên cứu đối với kinh điển. Việc nghiên cứu a-tỳ-đàm như những việc chú giải cho kinh điển, giải thích, định nghĩa cho các thuật ngữ ở đấy, hay tổ chức, chỉnh lý cho những giáo lý, học thuyết được nói ở đấy, là những công việc rất phổ biến trong thời kỳ Phật giáo bộ phái. Những điển tịch nghiên cứu thuộc a-tỳ-đàm được hình thành và phát triển, độc lập ngoài kinh điển, gọi đó là a-tỳ-đàm tạng (Abhidharma-piṭaka) hay luận tạng. Những gì là Phật nói được tồn tại được truyền trì từ thời đại Phật giáo nguyên thuỷ, tập hợp thành kinh điển, được gọi là kinh tạng (Sūtra-piṭaka). Những gì tập hợp về quy định sinh hoạt thường nhật của giáo đoàn Phật giáo được gọi là luật tạng (Vinaya-piṭaka). Kinh tạng và luật tạng kết hợp với luận tạng mới thành lập trên, thành ra có tam tạng (tri-piṭaka). Tam tạng đầy đủ này là sự hoàn thiện của thánh điển Phật giáo của thời kỳ Phật giáo bộ phái. Mỗi bộ phái đều truyền trì tam tạng của riêng mình, trong đó, đặc biệt luận tạng thể hiện đặc sắc của Phật giáo bộ phái, luận về những vấn đề triết học phức tạp, và đề cập đến cả tồn tại luận hữu-vô, v.v…vốn đã bị đức Thích Tôn ngăn cản.
[5] Thuộc lý luận - thuộc thực tiễn:
Bộ phái Phật giáo đã tiến hành nghiên cứu theo cách luận lý chi tiết về tồn tại luận, v.v…, và giữa các bộ phái với nhau cũng xảy ra những cuộc luận tranh về luận thuyết ấy, nhưng đó phần nhiều là những nghị luận không mấy liên quan đến luận lý thực tiễn, và do vậy họ đã lơ là phương diện hoạt động tôn giáo và những điều thực tiễn. Đại thừa cho rằng cần phải chỉnh sửa lại những sai lầm này, và nhấn mạnh đến các hoạt động tín ngưỡng, thực tiễn, hơn là lý luận suông. Và dù cho có nói đến lý luận thì cũng chỉ lý luận trên cơ bản thực tiễn như thời Phật giáo nguyên thuỷ.
[6] Phật giáo xuất gia - Phật giáo tại gia:
Bộ phái Phật giáo đã tiến hành nghiên cứu một cách miên mật tường tế về học vấn luận lý theo a-tỳ-đàm, nhưng việc đó là quá chuyên môn, quá khó hiểu đối với dân chúng thông thường, và nó cũng không phải là thứ cần thiết trong thực tế tín ngưỡng của dân chúng. Nơi bộ phái Phật giáo như thế, thì những nhà chỉ đạo tôn giáo đã phải vùi mình vào công việc nghiên tầm giáo lý theo cách chuyên môn trong tu viện, và như thế là đã lảng tránh những hoạt động tôn giáo của Phật giáo, và được cho rằng, đây là nguyên nhân làm suy yếu Phật giáo. Những nhà đại thừa thống cảm được cái lỗi này, nên đã thuyết giáo về con đường tín ngưỡng thực tiễn mà mọi người dễ hiểu dễ chấp nhận. Đó là sáu ba-la-mật vốn là phương pháp tu hành của bồ-tát. Trong sáu ba-la-mật đó, cái được nêu ra đầu tiên nhất là bố thí, là pháp thực hành mà người tại gia dễ dàng thực hành nhất.
Tuy nhiên bố thí trong đại thừa là bố thí tam luân không tịch, tức không chú ý đến ba phương diện: người bố thí, người nhận bố thí, và vật bố thí, cũng không kỳ vọng vào quả báo nhờ bố thí, đó là hành vi từ bi vốn được xây dựng trên không vô ngã, nên đó là tối cao của bố thí. Bố thí trong đại thừa là bố thí này. Cả trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ tất cả đều trên nền tảng không, là hành vi thắng nghĩa tối thượng. Đó chính là cái được gọi là ba-la-mật. Tức là nơi giáo lý đại thừa, những hành vi bố thí cúng dường trong sinh hoạt thường nhật của người tại gia nếu thực hành như lý tưởng thì sẽ xứng hợp với giáo lý đệ nhất nghĩa của Phật giáo, ngay nơi đời sống sinh hoạt đã là đạo tràng tu hành Phật đạo.
b. Tam thừa
Tam thừa là chỉ cho thanh văn, duyên giác và Phật thừa, trong nhị thừa đã trình bày trên kia, tiểu thừa là thanh văn thừa và duyên giác thừa, đại thừa là chỉ cho Phật thừa. Nên thanh văn thừa (tiểu thừa) và Phật thừa (đại thừa) thì như đã giải thích ở trên.
Duyên giác thừa (pratyekabuddha-yāna) cũng còn gọi là bích-chi-phật thừa. Duyên giác (pratyekabuddha, paccekabuddha) dịch âm là Bích-chi-phật, cũng được dịch nghĩa là Độc giác. Khác với Thanh văn vốn chứng ngộ nhờ nghe giáo huấn từ người khác, Duyên giác chứng ngộ không phải nhờ giáo huấn từ người khác mà nhờ tự mình quán chiếu giáo lý duyên khởi. Và khác với Phật-đà vốn có thể cứu độ người khác, duyên giác là bậc độc thiện, đặt mục đích chứng ngộ chỉ cho bản thân mình, ẩn cư trong núi rừng xa lìa thế gian, chứ không cứu tế dẫn dắt con người trong thế gian.
Tư tưởng duyên giác: Đức Thích Tôn quán giáo lý duyên khởi dưới cội cây bồ-đề, thành bậc chánh giác xong thì liên tục mấy tuần liền ngài ngồi tư duy thiền định, hưởng thụ cái vui của việc thành đạo. Đức Thích Tôn khi đó cho rằng đạo lý duyên khởi mà mình đã chứng ngộ là thứ cực kỳ khó lý giải, nên cho dù có nói ra cho người trong thế gian thì e họ cũng không lãnh hội được, do đó dù có nói cũng chỉ là nhọc công, thôi thì cứ im lặng mà ẩn cư như vậy. Có lẽ trạng thái của đức Thích Tôn lúc này gọi là Duyên giác.
Tuy nhiên, sau đó đức Thích Tôn đã được thần Phạm thiên cầu thỉnh, và ngài đã quyết định thuyết pháp.
Tư tưởng duyên giác (độc giác) có lẽ đã tồn tại ở xã hội Ấn Độ trước thời Phật giáo. Vì trong kinh điển nguyên thuỷ cũng có nói đến duyên giác. Ví dụ như kinh Tiên Thôn (Isigili-sutta) thuộc Trung Bộ 116, nói đến 500 vị độc giác trong núi Thôn Tiên, tương đương Hán tạng Tăng Nhất A-hàm kinh Tiên Nhơn Quật (T.2.723a), v.v…
Từ xưa nay cho rằng giáo lý thanh văn là tứ đế bát chánh đạo, giáo lý của duyên giác là mười hai duyên khởi, giáo lý của Phật bồ-tát là lục ba-la-mật, nhưng đây là cách nói của phía đại thừa, chẳng qua là tạm thời phối hợp như thế. Trong lịch sử Phật giáo, người được gọi là Duyên giác thật sự không từng tồn tại, cũng không có giáo lý riêng giành cho Duyên giác. Do đó không cần khu biệt giáo lý giành cho ba thừa như trên đây, và tứ đế, bát chánh đạo, mười hai duyên khởi hay sáu ba-la-mật đều là những giáo học căn bản của Phật giáo.
1.2. Phật giáo nguyên thuỷ, Phật giáo bộ phái, Phật giáo Đại thừa
Cách chia này là theo thời đại triển khai giáo lý của Phật giáo. Chủ yếu về Phật giáo trên lãnh thổ Ấn Độ.
1.2.1. Phật giáo nguyên thuỷ
Phật giáo nguyên thuỷ tạm hiểu là chỉ cho Phật giáo thời sơ kỳ, tức thời đại từ khi đức Thế tôn còn trụ thế cho đến khoảng một trăm năm sau khi Phật diệt độ. Vì khoảng thời gian này giáo đoàn Phật giáo chưa có sự phân phái, còn trong một thể thống nhất nguyên sơ.
Sơ kỳ này thật ra trong học giới cũng còn có thuyết chia thành hai phần, phần trước gọi là Phật giáo căn bản, phần sau gọi là Phật giáo nguyên thuỷ. Phật giáo căn bản nghĩa là còn hoàn toàn thuần tuý, tức những giáo huấn uyên nguyên nhất của đức Thích Tôn, thời kỳ này là chỉ cho Phật giáo của thời từ khi Phật còn tại thế cho đến khoảng các đệ tử trực tiếp còn sinh tiền, tức đến khoảng 30 năm sau Phật diệt độ.
Tài liệu cho Phật giáo nguyên thuỷ: Vì điển tịch Phật giáo làm tài liệu hiện còn, tối cổ nhất là kinh A-hàm và luật tạng, v.v… đều do bộ phái Phật giáo truyền trì. Và hình thức của nó mà chúng ta thấy hiện tại là được thành lập từ sau khi bộ phái Phật giáo hình thành. Do đó ở đấy chắc chắn cũng có hàm chứa giáo lý học thuyết của các bộ phái, nên có thể nói, cũng không thể chắc chắn có thể tách bạch ra những học thuyết của Phật giáo nguyên thuỷ nghĩa rộng, huống hồ là Phật giáo căn bản. Tuy nhiên, nếu so sánh những kinh A-hàm hay luật tạng mà các bộ phái truyền trì hiện còn, trích ra những hạng mục, những giáo thuyết được truyền trì chung giữa các bộ phái, thì tạm thời cũng có thể suy đoán được đấy có phải là cái nguyên thuỷ trước thời phân chia bộ phái hay không.
1.2.2. Phật giáo bộ phái
Khoảng sau Phật diệt một trăm năm thì nảy sinh những dị thuyết về cách lý giải giới luật hay giáo lý, xuất hiện những kiến giải đối lập giữa phái bảo thủ và phái cách tân. Phái cách tân được gọi là Đại chúng bộ (Mahāsaṅghika), phái bảo thủ được gọi là Thượng toạ bộ (Sthaviravāda/ Theravāda). Sự phân lập ban sơ nhất là khoảng sau Phật diệt 100 năm, nhưng một khi đã xảy ra sự phân lập rồi thì từ trong những giáo đoàn ấy lại sinh ra những quan điểm khác nhau về các vấn đề, và khi Phật giáo dần dần phát triển rộng đến các địa phương của Ấn Độ, thì mối liên lạc quan hệ của giáo đoàn giữa các địa phương với nhau bị rời rạc, và rồi các giáo đoàn của từng địa phương độc lập hình thành. Từ nơi hai bộ phái căn bản trên đều có sự phân phái dần dần, hai – ba trăm năm sau thì thành mười tám hay hai mươi bộ phái. Phật giáo của các nhóm đã phân phái thế này gọi là Phật giáo bộ phái.
Thánh điển, tam tạng của Phật giáo bộ phái: Nơi mỗi bộ phái đều có các kinh điển A-hàm hay luật tạng vốn được truyền trì từ thời đại Phật giáo nguyên thuỷ, được cải biên ít nhiều trong từng bộ phái. Ngoài đó ra, họ cũng truyền trì luận tạng mà thường được gọi là A-tỳ-đàm (abhidharma). A-tỳ-đàm là nghiên cứu theo cách triết học, như định nghĩa, giải thích những ngữ cú được nói trong kinh A-hàm (dharma), tổ chức chỉnh lý phân loại lại những giáo thuyết. A-tỳ-đàm được thành lập và phát triển từ thời đại Phật giáo bộ phái trở đi. Các bộ phái đều chế tác và truyền trì luận tạng với văn bản A-tỳ-đàm.
Tức là, các bộ phái đều đã truyền trì tam tạng (ti-piṭaka, tri-piṭaka), gồm kinh tạng (sutta-piṭaka, sūtra-piṭaka), tức kinh A-hàm vốn thu thập lại những thuyết pháp của đức Phật, xem đó là thánh điển căn bản; luật tạng (Vinaya-piṭaka) là tập hợp ghi chép về những quy tắc sinh hoạt của giáo đoàn; và luận tạng (Abhidharma-piṭaka) là thu thập những thư tịch mang tính triết học. Kinh tạng và luật tạng cũng đều có đặc trưng riêng của từng bộ phái, nhưng vì đấy là những gì đã được truyền lưu từ thời đại Phật giáo nguyên thuỷ, nên có nhiều mặt tương đồng giữa các bộ phái với nhau. Đối lại, luận tạng thì loại điển tịch mà các bộ phái tự mình chế tác, nên cho dù có ít nhiều tương tợ, nhưng về cơ bản thì đậm màu sắc của bộ phái, nổi trội nhiều những điểm khác nhau. Kinh tạng và luật tạng thì hàm chứa trực tiếp lời của đức Thích Tôn, còn luận tạng thì triển khai lý luận triết học, nên có vẻ như là không mấy cần thiết cho Phật giáo đồ tín ngưỡng số đông.
Nguyên nhân phân phái: theo thuyết truyền thống thì có hai nguyên nhân phân phái. Thứ nhất là vì đã xảy ra những quan điểm khác nhau về lý giải và ứng dụng giới luật trong giáo đoàn. Đối lập với phái bảo thủ theo hình thức truyền thống, phái cách tân theo thực tế cho rằng cần phải sửa đổi cả những quy định giới luật để phù hợp với khí hậu phong thổ, tập quán của từng địa phương và thích hợp với thời đại đương thời. Và họ đã chủ trương thiết lập nên 10 quy định, gọi là 10 sự. Sự việc này xảy ra giữa các tỳ-kheo tại Vesāli khoảng một trăm năm sau Phật diệt độ. Đối lại với phái này, phía các vị trưởng lão đã bác bỏ 10 sự ấy và cho là phi pháp. Với sự đối lập này, giáo đoàn Phật giáo đã phân thành hai phái là phái bảo thủ Thượng toạ bộ và phái cách tân Đại chúng bộ.
Thêm một thuyết nữa là khoảng sau Phật diệt một trăm năm, trong giáo đoàn xuất hiện người tuyên bố về năm sự (năm sự vọng ngôn) liên quan đến giáo lý. Phái bảo thủ là chư trưởng lão thì phản đối, nhưng phía các tỳ-kheo trẻ thì nhiều người tán thành thuyết cách tân, sanh ra ý kiến trái chiều, và phân thành hai phái căn bản.
Dù thế nào thì đại khái nguyên nhân của sự phân phái là vì trong giáo đoàn đương thời, đã tiến hành giải thích, nghiên cứu, chỉnh lý và phân loại những học thuyết giáo lý trong luật tạng và kinh tạng, và đã nảy sinh ra các quan điểm trái ngược nhau. Rồi đến thời vua Asoka, vị vua này tín phụng Phật giáo, ông cho truyền bá Phật giáo rộng đến các địa phương trong ngoài Ấn Độ, nên mối liên lạc giao thiệp giữa các giáo đoàn Phật giáo của các địa phương cũng bị mất dần, việc này cùng với sự lý giải khác nhau về giáo lý, cũng là nguyên nhân của sự phân phái chi mạt. Và với việc các bộ phái đều chế tác A-tỳ-đàm, nên về nguyên tắc thì các phái đã truyền trì tam tạng thánh điển kinh luật luận riêng.
Thuyết truyền thống về việc phân chia bộ phái: Về việc các bộ phái đã được phân phái thành 18 hay 20 phái như thế nào thì cũng có sự khác nhau giữa các truyền thống truyền thừa. Hiện cũng có khá nhiều thuyết phân phái được kể đến, nhưng đại biểu thì có hai hệ thống có thuyết phân phái nổi bật là, hệ Phật giáo Pāli Nam phương Thượng toạ bộ, và hệ Phật giáo Thuyết nhất thiết hữu bộ. Biểu đồ tóm tắt hai hệ này như dưới đây. *


Trên đây là giản lược về Phật giáo bộ phái. Thời đại của Phật giáo bộ phái là từ sau thời Phật giáo nguyên thuỷ, các bộ phái thành lập và hoàn thành giáo nghĩa, cho đến thời Phật giáo đại thừa hưng khởi, tức khoảng 200-300 năm, từ thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch đến khoảng bắt đầu Tây lịch. Nhưng từ sau Tây lịch thì Phật giáo bộ phái vẫn cùng song hành tồn tại với Phật giáo đại thừa và duy trì thế lực của mình ở các địa phương tại Ấn Độ. Theo Huyền Trang thì khoảng thế kỷ thứ bảy tại các nơi ở Ấn Độ, nhìn từ con số tự viện và tăng lữ thì bộ phái Phật giáo vẫn đông hơn Đại thừa.
1.2.3. Phật giáo Đại thừa
Do vì Phật giáo bộ phái hình thức hoá, học vấn hoá, không hoạt động tôn giáo như tính chất cần có của Phật giáo ban đầu, nên với tư cách là cuộc vận động để phục hồi hình dạng của Phật giáo ban đầu, Phật giáo đại thừa đã hưng khởi vào khoảng trước kỷ nguyên tây lịch một thế kỷ, đó là một Phật giáo mới. Phật giáo mới này gọi khinh miệt Phật giáo bộ phái là tiểu thừa hay thanh văn thừa, và đề xướng nhóm thánh điển vốn chưa từng có trong Phật giáo bộ phái và xem đó là kinh điển do đức Phật thuyết. Họ chủ trương rằng kinh điển ấy mới chân chính Phật pháp, những gì trong những kinh điển ấy nói mới phát huy được tinh thần chân thực tinh tuý của đức Thích Tôn. Niềm tin ấy nếu nhìn nhận một cách khách quan thì cũng là điều thoả đáng.
Phật thuyết và phi Phật thuyết: Bộ phái Phật giáo dường như đã phê phán đối với những kinh điển đại thừa mới này, gọi đó là thuyết của ác ma chứ không phải Phật giáo. Chủ trương Đại thừa phi Phật thuyết là từ câu chuyện này. Cho đến thời kỳ cận hiện đại ở một số nơi, (*trong đó có ở Việt Nam ta), vấn đề này vẫn còn được đặt ra.
Tuy nhiên thật ra, Phật thuyết là gì mới là vấn đề. Nếu cho rằng, chỉ những thuyết pháp của đức Thích Tôn trong lịch sử mới là Phật thuyết thì ngay cả trong kinh A-hàm, vốn được xem là kinh điển nguyên thuỷ, cũng có những nội dung do đệ tử Phật nói, tức đó là không phải Phật thuyết (phi Phật thuyết). Và kinh A-hàm vốn được cho là Phật thuyết, có được hình thức như hiện tại là sau Phật diệt khoảng một trăm năm, trong khoảng thời gian đó là được truyền trì nhờ ghi nhớ, nên chắc chắn có kèm theo những sửa đổi một cách có ý thức hoặc không ý thức, tuyệt đối đó không phải là chính xác những gì đức Phật đã thuyết pháp được.
Như thế, nếu nói cho nghiêm túc thì cả kinh điển nguyên thuỷ cũng không phải là Phật thuyết một cách chính xác. Do đó, ngày nay, những gì chuyển tải tinh tuý tinh thần của Phật-đà, giảng thuyết một cách đúng đắn về Pháp của Phật giáo, thì có thể xem là Phật thuyết, đó là cách hiểu chung của học giới ngày nay. Với ý nghĩa này thì kinh điển đại thừa đương nhiên cũng là Phật thuyết.
Phật giáo hưng thạnh và những thiếu sót: Có vẻ như cũng có rất nhiều người trong nội bộ Phật giáo bộ phái hưởng ứng cuộc vận động Phật giáo đại thừa mới này, và cuộc vận động ấy mau chóng phổ cập rộng rãi trên toàn cõi Ấn Độ. Phật giáo bộ phái do bị phía Phật giáo Đại thừa chê trách nên cũng phản tỉnh và cải thiện lại nội dung tu học và hành đạo của mình. Giữa cả hai, dường như cũng có xảy ra công kích mâu thuẫn nhưng dần dần cũng hiệp lực với nhau, như thể là có một luồng gió mới thổi đến làm cho mọi thứ được thức giấc, Phật giáo đã bước vào một thời kỳ hưng thịnh.
Vốn dĩ tại Ấn Độ, trong khoảng thời gian mấy trăm năm từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch đến thế kỷ thứ V sau TL, Phật giáo đã tiếp nhận triết học tôn giáo của các tôn giáo, giáo phái khác, nên ngày một trở nên mạnh mẽ và rất có thế lực. Đến nỗi có học giả còn gọi Ấn Độ thời kỳ này là “Ấn Độ của Phật giáo”, nhưng thực tế, cho dù Phật giáo có hưng thịnh đến mấy thì cũng chỉ tạo được cơ cấu thượng tầng thuộc tinh thần, về cơ cấu hạ tầng phong tục tập quán, hay chế độ giai cấp của dân chúng Ấn Độ thì Phật giáo đã không thể cải tạo, chi phối được. Đó là vì Phật giáo đã không đặt mục đích của mình vào việc ấy. Do đó, cho dù ngay trong thời đại Phật giáo phồn vinh thì trong xã hội Ấn Độ vẫn luôn giữ gìn cơ cấu tổ chức xã hội hạ tầng theo màu sắc Hindu giáo. Đó chính là lý do mà Phật giáo không thể cắm rễ vào xã hội Ấn Độ được.
Tại Ấn Độ khoảng thế kỷ thứ IV thứ V trở đi, giáo phái chính thống phục hưng và dần dần chiếm thế lực, Hindu giáo cùng với việc nắm giữ tín ngưỡng dân gian, họ cũng dung nhận những học thuyết, giới luật, v.v… những điểm ưu việt của Phật giáo vào làm thành cái của mình. Tức những sở trường tốt đẹp thuộc tinh thần của Phật giáo đã được hô hấp vào trong Hindu giáo. Đối lại với tình trạng này, hoạt động của Phật giáo chỉ còn ở lãnh vực chuyên môn, bỏ lơ phương diện tín ngưỡng thực tế.
Tình hình này xảy ra khoảng từ thế kỷ thứ VII, VIII, cùng khoảng thời gian này, Islam giáo cũng bắt đầu xâm nhập vào Ấn Độ, và dần dần bành trướng thế lực. Họ tấn công tín đồ các tôn giáo khác bằng vũ lực, như được mô tả là “muốn kiếm hay kinh ko-ran!”. Phật giáo cũng nhận sự tổn hại chí mạng do nguyên nhân này. Kinh điển bị thiêu đốt, Phật tượng, tự viện bị phá bỏ, tăng lữ bị giết hại, v.v… từ khoảng thế kỷ thứ XIII, Phật giáo tại bổn quốc Ấn Độ hầu như hoàn toàn bị diệt vong.
Ba thời kỳ của Phật giáo đại thừa: Phật giáo đại thừa Ấn Độ có thể chia ra làm ba thời kỳ. Nơi ba thời kỳ này, có thể xác nhận rõ được những khác biệt đặc trưng trong tánh cách, tư tưởng, văn bản, v.v… của từng thời kỳ.
(1) Sơ kỳ đại thừa: Đó là Phật giáo khoảng từ thế kỷ thứ I trước kỷ nguyên Tây lịch đến khoảng thế kỷ thứ III stl. Đó là thời đại Đại thừa Phật giáo còn rất tươi mới. Phát huy triệt để tinh thần của đức Thích Tôn với trọng tâm là hoạt động tín ngưỡng thực tiễn của Phật giáo, đó là đại thừa của thời kỳ này. Kinh luận của thời kỳ này là kinh Bát-nhã, kinh Duy Ma, kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Vô Lượng Thọ, v.v… những nhân vật đầu tiên nghiên cứu xiển dương kinh luận này là Long Thọ, Đề-bà, v.v…
(2) Trung kỳ Đại thừa: là chỉ cho thời kỳ Phật giáo đại thừa khoảng từ thế kỷ thứ III đến thế khoảng năm 650. Thời đại này, đại thừa cũng đã được khảo sát nghiên cứu chuyên sâu theo hướng triết học. Lúc bấy giờ trong nội bộ ngoại giáo, tư tưởng triết học cũng được triển khai nhiều, cụ thể là trong thời gian này, sáu phái triết học Ấn Độ đã đạt đến điểm cực thịnh, nên để đối kháng với trào lưu này, phía Phật giáo cũng cần thiết phải triển khai phương diện triết học luận lý. Không chỉ trong đại thừa mà cả bộ phái Phật giáo cũng triển khai nhiều những tư tưởng triết học một cách tường tế miên mật hơn, là vì ở trong bối cảnh này.
Tuy nhiên, đi cùng với việc chuyên môn hoá thế này thì nảy sinh hệ quả là bỏ lơ phương diện tín ngưỡng thực tế của dân chúng, nên Phật giáo với tư cách là tôn giáo, đã trở nên suy yếu. Điển tịch của Phật giáo thời kỳ này hàm chứa rất nhiều yếu tố luận lý triết học. Do đó, nếu nói từ phương diện luận lý triết học thì có thể nói, trung kỳ đại thừa là thời đại có nền triết học tư tưởng ưu việt nhất trong toàn cảnh lịch sử Phật giáo Ấn Độ, và cả trong toàn thể nền triết học Ấn Độ nói chung.
Kinh luận của thời kỳ này nói về những tư tưởng Như lai tạng, Phật tánh, duy tâm, v.v… Nhân vật hoạt động xiển dương cho hệ kinh luận này tiêu biểu là Di-lặc, Vô Trước, Thế Thân, v.v…
(3) Hậu kỳ đại thừa: là chỉ cho thời đại Phật giáo từ khoảng thế kỷ thứ VII đến khi Phật giáo diệt vong tại bổn quốc Ấn Độ vào khoảng đầu thế kỷ thứ XIII. Đại thừa Phật giáo thời trung kỳ đã bước vào thời kỳ chuyên sâu luận lý, triết học, chú thích học, và giải đãi đối với nhu cầu dẫn dắt đời sống tinh thần tín ngưỡng của dân chúng, nên để phục hồi chức năng hoạt động tôn giáo của Phật giáo, đó là nhiệm vụ của hậu kỳ đại thừa. Phật giáo trong thời kỳ này vừa bảo trì những thành quả học vấn của Phật giáo trung kỳ, nhưng để làm cho học vấn ấy dễ hiểu, họ đã cố gắng biểu hiện nó bằng biểu tượng, làm hiện thật lý tưởng của Phật giáo. Do vì phong trào chung của Ấn Độ đương thời đang diễn ra là văn học tantra của chủ nghĩa tượng trưng, nên Phật giáo cũng theo phong trào này, hình thành Phật giáo hậu kỳ theo chủ nghĩa tượng trưng. Gọi là Chân ngôn mật giáo. Theo đó thì với tam mật: thân mật, khẩu mật, ý mật, thân mật là tay kết ấn, khẩu mật là miệng đọc chân ngôn, ý mật là tâm niệm Phật hay phù hiệu biểu trưng của Phật, mà hiện thật hoá lý tưởng Phật giáo.
Tam mật này là biểu thị tư tưởng triết học cao xa của Phật giáo một cách bình dị dễ hiểu bằng những biểu tượng, nên dường như đã được lưu bố rộng rãi cả vùng Đông bộ vốn là bổn cứ của Phật giáo đương thời. Tuy nhiên, quả đúng là Mật giáo này quá kết hợp với tín ngưỡng dân gian thấp kém, làm mất nét lý tưởng đúng đắn của Phật giáo, hình thành nên một tôn giáo bị xem là không mấy giống Phật giáo. Phần thì ở các nơi, Phật giáo bị tấn công, áp bức bởi Hindu giáo và Islam giáo, dẫn đến hoàn toàn mất bóng ở Ấn Độ.
Sự truyền giáo đến các nước ngoài Ấn Độ: Với nhiều cơ hội khác nhau, kể từ thế kỷ thứ I, Phật giáo bộ phái, Phật giáo đại thừa sơ kỳ, trung kỳ, hậu kỳ đều được truyền đến Trung Quốc qua con đường Trung Á hoặc đường biển phía nam, trải qua hơn 1000 năm, các chủng loại kinh điển đều đã được Hán dịch. Bên cạnh đó, khoảng từ thế kỷ thứ VII cho đến lúc Phật giáo diệt vong tại Ấn Độ vào khoảng đầu thế kỷ thứ XIII, trong khoảng mấy trăm năm đó, Phật giáo Ấn Độ đã được du nhập vào Tibet, và kinh điển đã được liên tục dịch sang tiếng Tibet. Từ khoảng thế kỷ thứ IV, thứ V trở đi, Phật giáo Ấn Độ cũng được truyền đến các vùng phương nam như Java, Sumatra, Borneo, v.v… đã có thời kỳ rất hưng thịnh. Phật giáo Trung Quốc lại truyền đến các nước trong vùng văn hoá chữ Hán. Phật giáo Tibet lại truyền đến Mông cổ, Mãn châu.
Trên đây là chỉ riêng Đại thừa Phật giáo, với Bộ phái Phật giáo thì Thượng Toạ bộ đã được truyền đến các nước phương nam như Srilanka, Burma, Thái, Cam-pu-chia, Lào, v.v…
1.3. Phật giáo Nam truyền, Phật giáo Bắc truyền
Đây là cách phân chia Phật giáo theo địa phương truyền giáo. Nhưng cách phân loại cũng như danh xưng này chỉ mang tính tạm gọi, chủ yếu là theo hướng truyền giáo từ bổn quốc Ấn Độ, truyền về phía nam thì gọi là Nam truyền Phật giáo hay Nam phương Phật giáo, truyền về phía Bắc thì gọi là Bắc truyền Phật giáo hay Bắc phương Phật giáo. Trong thực tế, Nam truyền là chỉ cho Phật giáo Thượng Toạ bộ; còn Bắc truyền là chỉ cho Phật giáo Đại thừa, bất kể là thực tế nó được truyền đi theo hướng nào.
1.3.1. Phật giáo Nam Truyền
Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, v.v… của ngày nay là Phật giáo vùng phía nam theo sự truyền lưu từ Ấn Độ, gọi là Phật giáo phương Nam (Southern Buddhism), ngày nay còn được gọi là Phật giáo Pāli (Pāli Buddhism) hay Phật giáo Thượng Toạ Bộ (Theravāda Buddhism). Phật giáo Pāli là do vì Phật giáo này truyền trì tam tạng thánh điển được viết bằng một loại cổ ngữ Ấn Độ gọi là Pāli.
Pāli: Vốn dĩ được hiểu là ngôn ngữ thánh điển. Pāli (thánh điển Pāli) là ngôn ngữ mang ý nghĩa thánh điển căn bản của các chú thích thư (atthakathā), tức chỉ cho tam tạng thánh điển kinh luật luận. Các tỳ-kheo Thượng toạ bộ ở các nước Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, v.v… khi giao lưu với nhau, đã sử dụng ngôn ngữ thánh điển chung này, họ gọi đó là ngôn ngữ thánh điển, tức ngôn ngữ Pāli. Đến thời hiện đại, khi người phương Tây nghiên cứu Phật giáo phương Nam và kinh điển của hệ này, họ đã thuận theo cách gọi của các tỳ-kheo địa phương, gọi ngôn ngữ ấy là ngôn ngữ Pāli. (*Nghĩa từ điển của từ pāli (√pal) là hàng, dãy, lề lối, nguyên tắc, v.v…)
Tuy nhiên vốn dĩ ngôn ngữ này có nguồn gốc là ngôn ngữ thường nhật của vùng phía Tây Ấn độ trong thời cổ đại, thuộc ngôn ngữ Paiśācī. Về mặt ngôn ngữ học thì Paiśācī là một loại Prākrit thuộc ngôn ngữ trung kỳ Ấn độ Aryan. Pāli ngữ thuộc hệ thống Paiśācī này, nhưng trong đó cũng được pha trộn nhiều yếu tố thuộc ngôn ngữ Magadha cổ đại được đức Thích Tôn sử dụng để thuyết pháp.
Vốn dĩ đức Thích Tôn có dạy rằng, khi nói pháp của ngài, thì nên sử dụng tiếng nói thường ngày của dân chúng tại từng địa phương ấy, để tất cả mọi người thuộc tất cả mọi giai cấp trong xã hội đều có thể hiểu được, bản thân ngài cũng sử dụng ngôn ngữ đời thường là tiếng Magadha cổ đại. Và do vì Phạn ngữ cao cấp vốn là ngôn ngữ được sử dụng trong thánh điển của Bà-la-môn giáo, chỉ được lý giải ở giai cấp tri thức, trong dân chúng tầng lớp thấp thì ít hiểu được, nên ngài đã ngăn không cho sử dụng Phạn ngữ khi thuyết pháp, mà khuyên nên sử dụng tiếng địa phương nơi đó để người nghe có thể hiểu.
Phật giáo Pāli vốn dĩ là Thượng toạ bộ được truyền lưu ở vùng Ấn Độ phía tây, nơi Phật giáo này, từ tiếng Magadha cổ đại vốn là ngôn ngữ thuyết pháp của đức Thích Tôn đã chuyển sang ngôn ngữ Paiśācī của vùng phía tây Ấn Độ, nhưng trong đó cũng còn những đặc trưng của ngôn ngữ Magadha, có lẽ đã được giữ lại ít nhiều để tưởng nhớ đức Thích Tôn.
Trong hệ Prākrit hiện còn, nếu ngoại trừ Phạn ngữ Phật giáo thì Pāli ngữ là ngôn ngữ gần với Phạn ngữ cổ điển nhất. Và nếu nói về văn bản Prākrit thì văn bản bằng ngôn ngữ Pāli là cái có số lượng nhiều nhất còn truyền lại. Tuy nhiên Pāli là ngôn ngữ thánh điển của riêng chỉ Thượng toạ bộ Nam truyền, không được sử dụng trong các bộ phái khác hay trong hệ văn học khác của Ấn Độ.
Phật giáo Nam phương Thượng Toạ Bộ này vốn được truyền đến Tích Lan vào thời vua Asoka, Asoka là vị vua từng thống lãnh toàn Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ III trước Tây lịch, là người tín phụng Phật giáo, ông đã gửi đoàn truyền giáo đi đến các nơi, không chỉ trên toàn lãnh thổ Ấn Độ mà đến toàn thế giới được biết đến đương thời. Theo truyền thừa của hệ Phật giáo Pāli thì có 9 giáo đoàn được cử đi các nơi, Phật giáo nam phương Thượng toạ bộ này được truyền đến bởi trưởng lão Mahinda vốn là thái tử con vua Asoka.
Chín địa phương được cử sư truyền giáo đến và tên các nhà sư truyền giáo ấy theo truyền thừa của hệ Phật giáo Pāli là như sau.
|
|
Địa phương |
Sư truyền giáo |
|
1 |
Kasmīra, Gandhāra (Tây Bắc Ấn Độ) |
Majjhantika (Mạt Điền Địa末田地) |
|
2 |
Mahisa-maṇḍala (Nam Ấn Đông bộ) |
Mahādeva (Đại thiên大天) |
|
3 |
Vanavāsa (Nam Ấn Tây bộ) |
Rakkhita |
|
4 |
Aparantaka (phía Tây Ấn Độ vùng bờ biển) |
Yonaka Dhammarakkhita |
|
5 |
Mahāraṭṭha (Tây Nam Ấn Độ) |
Mahā Dhammarakkhita |
|
6 |
Yona (thế giới Greece phương Tây) |
Mahārakkhita |
|
7 |
Himavanta (Chân núi Hima) |
Majjhima (Mạt-thị-ma末示摩) |
|
8 |
Suvaṇṇabhūmi (Vùng bờ biển Burma) |
Soṇa-Uttara |
|
9 |
Tambapaṇṇi (Xích Đồng Diệp赤銅葉) (Đảo Ceylon) |
Mahinda |
Trong 9 địa phương được truyền giáo trên đây, có 2 dòng truyền hưng thịnh và còn lưu lại đến sau này, đó là Thuyết nhất thiết hữu bộ ở Gandhara, Kasmir ở cùng tây bắc Ấn Độ (nay là phía Tây Pakistan), và dòng Thượng toạ bộ được truyền đến Tích Lan.
Phật giáo Tích Lan: Phật giáo này sau khi được truyền đến Tích Lan, đã nhận được sự quy y và bảo hộ của nhiều triều đại quốc vương nên rất phát triển, cho đến ngày nay vẫn tồn tại với tư cách là quốc giáo ở đảo quốc này. Tuy nhiên trong chiều dài lịch sử, Phật giáo này cũng đã có nhiều thăng trầm. Cũng có khi bị các bộ phái khác của Phật giáo hay Phật giáo Đại thừa vào đảo quốc này rồi chiếm vị trí ưu việt hơn, cũng có khi bị người Tamil thuộc giáo đồ Hindhu giáo từ Ấn Độ áp bức chiếm lãnh. Đến thời cận đại, người Anh, người Bồ-đào-nha, người Hoà Lan thuộc giáo đồ ki-tô giáo xâm lược và bị áp bức cũng trải qua hơn bốn trăm năm, giáo đoàn Phật giáo cũng có khi bị đứt đoạn và trải qua nhiều khổ nạn. Tuy nhiên, Thượng Toạ bộ kiên nhẫn vẫn thường duy trì truyền thống thuần tuý của mình, bằng việc nghiêm trì giới luật, họ đã giữ được sự kết nối tín ngưỡng và quy y của dân chúng cho đến ngày nay. Phật giáo ngày nay trên thế giới, cả từ phương diện giáo đoàn và cả từ phương diện thánh điển, Phật giáo Pāli Nam phương Thượng toạ bộ là Phật giáo thuần tuý nhất, hệ thánh điển Pāli cũng đã được bảo tồn giữ gìn toàn vẹn nhất. Đây là những điểm đặc thù so với Phật giáo ở các phái khác.
Phật giáo Thượng toạ bộ Tích Lan đã được truyền đến Burma vào khoảng thế kỷ thứ X, và khoảng thế kỷ thứ XIII trở đi thì cũng lần lượt được truyền đến Thái, Cam-pu-chia, Lào, v.v… và ở Burma hay Thái, Phật giáo này đã đạt được vị trí quốc giáo cho đến tận ngày nay.
1.3.2. Phật giáo Bắc truyền
Là Phật giáo được truyền đến Trung Quốc từ Tây Bắc Ấn Độ thông qua con đường Trung Á, và Phật giáo truyền đến Trung Quốc thông qua đường biển phía nam, Phật giáo truyền đến bán đảo Triều Tiên, Nhật Bản từ Trung Quốc, Phật giáo Việt Nam, và Phật giáo truyền đến Tibet trực tiếp từ bổn quốc Ấn Độ, những Phật giáo này đều được gọi là Phật giáo Bắc truyền hay Phật giáo Bắc phương (Northern Buddhism).
Trong Phật giáo này, xét về Phật điển đã được phiên dịch thì thánh điển của Phật giáo bộ phái cũng có nhiều, nhưng của Phật giáo đại thừa thì càng nhiều hơn. Đặc biệt, nếu xét từ góc độ Phật giáo được tín phụng và sống trong thực tế, thì hầu hết đều là Phật giáo đại thừa. Và nguyên ngữ thánh điển của Phật giáo này phần lớn là Phạn ngữ (Phạn ngữ Phật giáo), nên cũng có thể gọi hệ Phật giáo này là Phật giáo hệ Phạn ngữ.
Phật giáo Trung Quốc: Phật giáo được truyền đến Trung Quốc là khoảng thế kỷ thứ I, việc phiên dịch kinh điển cũng bắt đầu từ thế kỷ thứ II, liên tục trải qua cả hơn một ngàn năm. Nên số lượng thánh điển Hán dịch rất khổng lồ. Trong thực tế, Phật điển Hán dịch hiện còn là cái ưu việt nhất trong tất cả hệ thánh điển Phật giáo dù về chất hay về lượng. Khác với thánh điển Pāli vốn lưu giữ nội dung thuần tuý, Phật điển Hán dịch có phạm vi rộng, hàm hợp nhiều giáo nghĩa vô cùng thâm thuý, và đặc biệt, khi Phật giáo được chú trọng nghiên cứu theo phương pháp văn bản học, thì nguồn tài liệu Hán dịch, với việc có nhiều dị dịch cho cùng một điển tịch, đã trở thành nguồn tài liệu quý giá bậc nhất đối với việc nghiên cứu về lịch sử phát triển của văn bản.
Phật điển Hán dịch: Tương truyền, khi Phật giáo được chính thức truyền đến (được vương triều chấp nhận) vào thời hậu Hán thế kỷ thứ I, thì đồng thời, kinh điển cũng được phiên dịch. Nhưng từ những kinh điển hiện tồn cho thấy, Phật điển Hán dịch tối cổ là kinh điển do An Thế Cao, Chi Lưu Ca Sấm dịch vào khoảng nửa sau thế kỷ thứ II. Sau đó, trải qua các triều đại Tam Quốc, lưỡng Tấn, Nam Bắc triều, Tuỳ, Đường, Tống, v.v… việc phiên dịch được tiến hành liên tục bởi các nhà sư truyền giáo từ Ấn Độ, Tây vực đến, hay bởi các nhà sư cầu pháp người Trung Quốc, v.v… Số Phật điển ấy thường được gọi là Nhất thiết kinh, vào đời Đường có hơn ngàn bộ, hơn năm ngàn quyển, hiện còn cho đến ngày nay là hơn một ngàn bảy trăm bộ được Hán dịch. Hiện tại, nói đến tài liệu để nghiên cứu Phật giáo thì Phật điển Hán dịch là đầy đủ và quan trọng nhất.
Phật giáo Tibet: Từ khoảng thế kỷ thứ VII, Phật giáo bắt đầu được du nhập vào Tibet trực tiếp từ Ấn Độ, và việc phiên dịch kinh điển liên tục từ đó cho đến thế kỷ thứ XIII. Phật điển Tibet dịch cũng đồ sộ kế sau Hán dịch, trong đó cũng có những kinh điển và luận thư thuộc trung kỳ và hậu kỳ đại thừa mà không thể thấy trong Hán dịch cũng được bao hàm, nên nếu nghiên cứu Phật giáo Ấn Độ thời đại này thì tạng Tibet dịch là tài liệu quan trọng không thể thiếu.
Đại tạng kinh Tibet: Theo bản Derge thì có 4569 bộ, theo bản Peking thì có 6453 bộ được thu lục. Nếu nhìn từ số bộ thì hơn gấp 3 lần tạng Hán dịch, nhưng tạng này có rất nhiều bộ ngắn, nên trong thực tế số lượng không bằng tạng Hán dịch. Và ngoài ra, trong tạng Tibet dịch cũng hàm chứa loại được dịch trùng từ tạng Hán dịch.
Phật giáo Nepal: Ngoài trên ra, ở Nepal Phật giáo đại thừa cũng được trực tiếp truyền vào từ Ấn Độ. Đặc biệt khoảng thế kỷ thứ XII, XIII Phật giáo bị bức hại bởi giáo đồ Islam giáo tại Ấn Độ, nên đã lánh nạn vào vùng núi Himalaya, nên nhiều Phạn ngữ Phật điển đã còn lại ở Nepal. Những thủ bản này được phát hiện bởi người phương Tây từ thế kỷ thứ XIX, và được người phương Tây, người Nhật Bản, v.v… thu thập và nghiên cứu cho đến ngày nay.
Tả bản (thủ bản) Phật điển Phạn văn: ngoài tả bản được tìm thấy ở Nepal, từ cuối thế kỷ thứ XIX, những đội viễn chinh người Anh, người Đức, người Pháp, người Nga, người Nhật, v.v… đã thám hiểm các vùng địa phương ở Trung Á, từ đó, nhiều tả bản Phật điển Phạn văn đã được phát hiện, tuy nhiên phần nhiều là không còn nguyên vẹn. Trong thế kỷ XX, lác đác các nơi tại Ấn Độ, và tại Tibet người ta cũng còn phát hiện được tả bản Phật điển Phạn văn. Đặc biệt thủ bản tại Tibet thì hiện đại nay vẫn còn được phát hiện mới.
Tại Nhật Bản từ xưa nay cũng còn bảo tồn được hai bản Tâm Kinh Bát Nhã - bản ngắn và bản dài, kinh Kim Cang Bát Nhã, kinh Đại Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà, v.v… những thủ bản này đã được Max Müller xuất bản tại đại học Oxfort khoảng năm 1867.
Phật giáo Nam hải: Hệ Phật giáo phương Bắc ngoài trên ra thì cũng còn nhóm Phật giáo được lưu hành ở vùng Indonesia, gọi là Phật giáo Nam hải. Cụ thể là ở vùng Mã-lai, Sumatra, Java, Borneo, Celebes, v.v… trước thời bị Islam giáo xâm nhập như hiện tại thì khoảng hơn một ngàn năm, từ thế kỷ thứ III cho đến thế kỷ thứ XIV, những vùng này đã được Phật giáo truyền đến trực tiếp từ Ấn Độ, khoảng trước sau năm 700 Tây lịch, vùng Palembang thuộc Sumatra đã trở thành vùng trung tâm nghiên cứu Phật giáo (Śrīvijaya). Nhiều địa phương ở vùng Nam hải có tượng Phật, di tích Phật giáo còn lại ngày nay cũng cho thấy đã từng có thời hoàng kim, như nổi tiếng trong đó có Borobudur ở Java, Indonesia, là quần thể kiến trúc của thế kỷ thứ IX.