TRI THỨC CĂN BẢN ĐỂ HIỂU DỤNG NGỮ PHẬT HỌC
Thanh Trì
soạn dịch và gia bút
2025
Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM
Lưu hành nội bộ
1.1. Phật giáo nhị thừa, tam thừa
1.1.3. Sự khác nhau giữa Tiểu thừa và Đại thừa:
1.2. Phật giáo nguyên thuỷ, Phật giáo bộ phái, Phật giáo Đại thừa
1.3. Phật giáo Nam truyền, Phật giáo Bắc truyền
2.1.2. Tam thế thập phương chư Phật
2.2.1. Hệ thống ngôn giáo – thánh điển
2.2.1.1. Chín phần giáo và mười hai phần giáo
2.2.1.2. Tam tạng kinh luật luận
2.2.2. Những giáo lý đã tuyên thuyết
2.3.1. Khởi nguyên của từ Tăng saṅgha
2.3.4. Định nghĩa về tăng-già trong kinh A-hàm
Chương 4. Tam pháp ấn, tứ pháp ấn
Mọi giáo thuyết của Phật giáo đều là nói về duyên khởi
Ngoại duyên khởi, nội duyên khởi
A. Các chi của thuyết duyên khởi
6.0.3. Tứ đế và nguyên lý trị bệnh
7.1. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo:
Giai vị tu hành của thuyết nhất thiết hữu bộ
Giai vị tu hành của bồ-tát đại thừa
LỜI ĐẦU
Nội dung sách này được soạn dịch chủ yếu dựa trên những tri thức Phật học của học giới hiện đại. Phần lớn từ 『仏教用語の基礎知識』 (Tri thức Căn Bản về Dụng ngữ Phật giáo) của tác giả 水野弘元 (Mizuno Kogen) được xuất bản bởi春秋社 (Shunjusha) năm 1972. Mục đích giới thiệu tri thức cơ bản để hiểu Phật học cho sinh viên Phật học ở cấp cử nhân.
Như tên đề, sách này chủ yếu trình bày các tri thức căn bản của Phật giáo học, chú trọng phần giải thích các thuật ngữ liên quan. Vì đặc trưng chú trọng giải thích thuật ngữ Phật học căn bản, nên khá phù hợp cho người mới bắt đầu. Vốn dĩ là tác phẩm có uy tín, được tin cậy chọn dùng làm giáo tài cho sinh viên mới học Phật học tại Nhật Bản. Nhưng do vì được xuất bản đã lâu, nên có vài chỗ tri thức không còn phù hợp nữa, nơi những chỗ như vậy soạn giả hoặc lược đi, hoặc thêm giải thích vào, phần gia bút như vậy sẽ được bắt đầu bằng dấu *.
CHƯƠNG 2. TAM BẢO
2.0. Khái thuyết
Tam bảo (tri-ratna, ti-ratana hay là ratna-traya, ratanattaya) là ba ngôi Phật Pháp Tăng. Nếu hỏi Phật giáo là gì thì có thể nói đó là Tam bảo Phật Pháp Tăng. Tức là nơi nào có Phật giáo thì tất nhiên nơi đó có tồn tại Tam bảo Phật pháp tăng, đối với Phật giáo đồ, việc quy y tam bảo chính là việc làm đầu tiên nhất, và là điều kiện quan trọng tuyệt không thể thiếu nhất. Dù ở thời đại nào, hay Phật giáo ở địa phương nào, bất kể là Phật giáo bộ phái hay Phật giáo đại thừa, việc quy y tam bảo luôn được xem là tối quan trọng.
Định nghĩa tam bảo: Từ xưa, tam bảo được định nghĩa và phân loại với ba loại: (1) Hiện tiền tam bảo (2) Trụ trì tam bảo (3) Nhất thể tam bảo hay đồng thể tam bảo.
(1) Hiện tiền tam bảo là tam bảo của thời đức Thích Tôn còn tại thế, bản thân ngài là Phật bảo, giáo pháp ngài giảng dạy là Pháp bảo, giáo đoàn xuất gia gồm tỳ-kheo tỳ-kheo-ni đệ tử của ngài là Tăng bảo.
(2) Trụ trì tam bảo hay còn gọi là thế gian trụ trì tam bảo, là chỉ cho tam bảo trong Phật giáo sau thời đức Phật diệt độ ở từng thời đại khác nhau. Thời đại sau khi Phật diệt độ, đối tượng lễ bái tức Phật bảo, là biểu tượng tượng trưng cho ngài, là tượng Phật được khắc vẽ hay chế tác mô phỏng hình dáng ngài. Pháp bảo là kinh điển biên chép lại pháp của Phật. Tăng bảo là giáo đoàn xuất gia tỳ-kheo tỳ-kheo-ni.
Phật bảo đặc biệt: Sau khi đức Phật diệt độ, xá-lợi (śarīra, sarīra) của Phật được lễ bái, xem như là Phật bảo, tháp thờ xá-lợi được kiến lập nhiều nơi, dân chúng tín mộ Phật có thể lễ bái tháp Phật. Cùng với xá-lợi, những vật thuộc thân Phật như tóc, răng, v.v… và những thứ mà ngài đã sử dụng như bình bát, v.v… đều được dân chúng lễ bái, xem như là thân Phật. Gọi đó là dhātu.
Và ngoài ra, trước thời tượng Phật được chế tác thì đối tượng được lễ bái để thay thế cho Phật hiện tiền là bốn chỗ kỷ niệm về đức Phật. Đó là vườn Lumbinī nơi ngài đản sanh, Bodhagayā nơi ngài thành đạo, Lộc dã uyển nơi ngài chuyển pháp luân lần đầu, và Kusinagara nơi ngài nhập diệt, và những nơi có dấu chân Phật, cây bồ-đề, pháp luân, tháp thờ Phật cũng đều được lễ bái xem như là các biểu tượng về ngài.
(3) Nhất thể tam bảo hay đồng thể tam bảo là nhìn tam bảo Phật pháp tăng từ quan điểm triết học lý luận, là giải thích rằng ba ngôi ấy không phải là khác nhau mà là đồng nhất thể. Ví dụ nói, pháp là do Phật phát hiện và nói ra nên mới là giáo pháp của Phật, pháp là từ Phật mà có. Và Phật phát hiện ra pháp, giác ngộ pháp, thể đắc pháp, với những việc như thế thì mới là Phật, nên Phật cũng không tồn tại ngoài pháp. Tức Phật có bản chất là pháp. Và tăng là những người thay Phật nói pháp, nên nếu không có Phật và pháp thì cũng không thể có tăng. Và từ Tăng mà giá trị và ý nghĩa của Phật và pháp được hiển thị ở đời, nên tăng có mối quan hệ mật thiết không rời với Phật và pháp. Do Phật pháp tăng tam bảo ở trong mối quan hệ như vậy nên gọi là nhất thể / đồng thể tam bảo.
Trên đây là ý nghĩa về ba chủng loại tam bảo. Tuy nhiên thông thường khi nói đến tam bảo thì chỉ cho tam bảo hiện tiền theo lịch sử Phật giáo.
Sau đây là giải thích cụ thể cho tam bảo.
2.1. Phật
Phật là từ tỉnh lược của Phật-đà (Buddha). Phật-đà có nghĩa là “người đã giác ngộ”, “giác giả”. Khi muốn phân biệt với thanh văn và bích-chi-phật thì gọi Phật là A-nậu-đa-la tam-miệu tam-phật-đà (anuttara samyak-sambuddha, vô thượng chánh đẳng chánh giác giả), tức là “bậc chánh đẳng giác không ai bằng”, là bậc tự mình đã giác ngộ, làm cho người khác giác ngộ, giác hạnh được hoàn thành viên mãn (tự giác giác tha giác hạnh viên mãn).
Người phương Tây khi nói đến Buddha phần nhiều hiểu là chỉ cho đức Phật Thích-ca trong lịch sử. Đây có lẽ là do vì theo phong tục tập quán của Nam phương Thượng toạ bộ. Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền thì có cách hiểu khác.
2.1.1 Chư Phật quá khứ
Từ trong thời đại Phật giáo ban sơ, khi nói đến Phật-đà thì không chỉ nói đến Thích Ca Mâu Ni Phật mà còn có 6 vị Phật khác trước đức Phật Thích Ca, cũng ra đời thuyết pháp, cứu độ chúng sanh. Tức sáu vị Phật ấy cùng với đức Thích Ca thành “thất Phật quá khứ”. Thất Phật quá khứ này đối ứng với Di-lặc Phật là vị Phật sẽ thành Phật trong vị lai. Tư tưởng này đã có từ thời kỳ Phật giáo nguyên thuỷ.
Thất Phật quá khứ là: (1) Phật Tỳ-bà-thi (Vipaśyin, Vipassin), (2) Phật Thi-khí (śikkhin, Sikhī), (3) Phật Tỳ-xá-phù (Viśvabhū, Vessabhū), (4) Phật Câu-lâu-tôn (Krakucchanda, Kakusandha), (5) Phật Câu-na-hàm Mâu-ni (Kanakamuni, Konāgamana), (6) Phật Ca-diếp (Kaśyapa, Kassapa), (7) Phật Thích-ca Mâu-ni (Śākyamuni, Sākyamuni). Tư tưởng thất Phật này đã được nêu ra trong kinh Đại Bổn Trường A-hàm (Pāli Trường Bộ 14 kinh Đại Bổn Mahāpadāna-suttanta), là mục thuyết pháp của đức Thích Tôn.
Về Phật Di-lặc (Maitreya, Metteyya) của thời vị lai cũng được nói trong kinh Chuyển Luân Thánh Vương Tu Hành của Trường A-hàm (Pāli Trường bộ 26, Chuyển luân Thánh Vương Sư tử hống kinh, Cakkavattisīhanāda-sutanta), Chuyển Luân Thánh vương kinh của Trung A-hàm, v.v… Phật-đà vốn là người có nhân cách hoàn hảo để nhìn thấy pháp, chân lý về thế giới nhân sinh, và nói pháp ấy cho con người trong cõi đời này, thì không chỉ riêng đức Phật Thích Ca, mà trong quá khứ cũng như trong tương lai cũng có nhiều chư Phật, có lẽ Phật-đà như thế được đề cập để chứng minh tính chân lý của pháp, tính vĩnh cửu của pháp.
Đến thời Bộ phái Phật giáo thì còn đề cập đến nhiều Phật-đà trước quá khứ thất Phật nữa. Con số Phật quá khứ và tên gọi của chư vị Phật cũng không giống nhau.
25 hay 28 Phật quá khứ của Phật giáo Pāli: Ví dụ như trong Phật giáo Pāli, trước bảy vị Phật quá khứ có thêm 18 vị Phật khác nữa thành ra 25 Phật, rồi trước đó thêm 3 Phật nữa thành ra 28 Phật. Điều này có thể tìm thấy trong Tiểu bộ Kinh Phật chủng tánh / Phật sử (Buddhavaṃsa).
Phật quá khứ trong Phạn văn Đại Sự: Trong Phạn văn Đại sự (Mahāvastu) thuộc Thuyết Xuất Thế Bộ của Đại chúng bộ có nêu ra hai thuyết về Phật quá khứ. Nếu theo thuyết thứ nhất thì những vị Phật mà đức Thích Tôn đã gặp gỡ, lễ bái và nhận giáo huấn khi ngài còn trong thời đại làm bồ-tát là, 30 ức Thích Ca Phật, 8 ức Nhiên đăng Phật, 500 Liên hoa thượng Phật, 3 ức Phất-sa Phật, 18000 Ma La Tràng Phật, 9 vạn Ca-diếp Phật, v.v… Theo thuyết thứ hai thì nêu ra nhiều chủng loại danh hiệu Phật từ kinh Đa Phật, trong đó, từ Đế Tràng Phật cho đến Nhiên đăng Phật là 114 vị, và từ Nhiên Đăng Phật cho đến Thích Ca Phật là 15 vị.
Phật quá khứ trong Phật Bổn Hành Tập Kinh: Phật Bổn Hành tập kinh có nội dung gần với Đại Sự Phạn văn, cũng có nêu ra nhiều vị Phật quá khứ tương tợ. Cũng có hai thuyết như Đại Sự, con số cụ thể và thứ tự có khác nhau nhưng có nhiều điểm tương đồng, đặc biệt là về danh hiệu chư Phật.
Phật quá khứ của Thuyết nhất thiết hữu bộ: Trong Căn Bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da Dược sự có nói về việc đức Thích Tôn trong thời đại làm bồ-tát tu hành, trong a-tăng-kỳ kiếp đầu tiên đã cúng dường 75000 vị Phật từ đức Phật Thích Ca đến Phật Hộ thế, trong a-tăng-kỳ kiếp thứ hai đã cúng dường 76000 vị Phật từ đức Phật Nhiên Đăng đến Phật Đế Thích Tràng, trong a-tăng-kỳ kiếp thứ ba đã cúng dường 77000 vị Phật từ đức Phật An Ổn đến Phật Ca Diếp. Điều này cũng được nêu trong luận Đại Tỳ-bà-sa và luận Câu-xá. Trải qua tam kỳ rồi thì trong một trăm đại kiếp cuối cùng đã thân cận cúng dường sáu vị Phật là Phật Tỳ-bà-thi cho đến Phật Ca-diếp.
Và trong các kinh Phổ Diệu, kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm (và bản Phạn), kinh Phật Tạng, v.v… cũng có nói đến chủng chủng chư Phật quá khứ. Còn trong kinh Tam Thiên Phật Danh thì nêu ra ba ngàn Phật danh trong ba kiếp, quá khứ trang nghiêm kiếp, hiện tại hiền kiếp, vị lai tinh tú kiếp, tức một ngàn vị Phật xuất hiện trong mỗi kiếp này.
2.1.2. Tam thế thập phương chư Phật
Đến thời Phật giáo bộ phái thì trong nhiều bộ phái có nói đến nhiều Phật-đà trong quá khứ hiện tại vị lai xuất hiện thuyết pháp, trong đó, một phái của Đại chúng bộ cho rằng ngoài thế giới ta-bà mà đức Thích Tôn xuất hiện giáo hoá, thì còn có nhiều thế giới trong mười phương, mỗi mỗi thế giới ấy đồng thời có Phật-đà xuất hiện.
Vốn dĩ trong Phật giáo, mỗi thế giới chỉ có một Phật xuất hiện chứ không đồng thời có hai Phật trở lên xuất hiện. Nhưng nếu nơi thế giới khác thì có trường hợp đồng thời có nhiều Phật xuất hiện. Đến thời Phật giáo đại thừa thì phát triển hơn, nói đến việc vô số Phật-đà xuất hiện trong cả ba đời mười phương.
Thế giới theo Phật giáo: từ thời Phật giáo nguyên thuỷ đã nói đến việc trong một thế giới, cùng một thời gian, chỉ có một chuyển luân vương, một vị Phật xuất hiện. Thế giới như thế gọi là Nhất Phật thế giới. Thế giới ta-bà là nhất Phật thế giới mà đức Thích Ca hành đạo. Ta-bà ở đây là từ dịch âm của sahā hay sabhā, vốn mang ý nghĩa là “tập hội”, nhưng từ chữ sahā còn được hiểu là có ý nghĩa “cõi nhẫn”, “cõi kham nhẫn”, và giải thích rằng, thế giới này của chúng ta nhiều thống khổ, là thế giới phải kham nhẫn những thống khổ ấy.
Về thế giới thì có nhiều thuyết. Trước tiên là có một tiểu thế giới, là chỉ cho đại địa được bao quanh bởi núi thiết vi (Cakravāḍa, Cakkavāḍa) vốn lấy Tu-di sơn (Sumeru, Meru) làm trung tâm, trên núi Tu-di là 33 cõi trời ( trời Đao Lợi), bốn phía chân núi có bốn thiên vương, có bốn châu mà con người sinh sống là, phía đông có Thắng thân châu (phất-bà-đề), phía nam có Thiệm bộ châu (diêm-phù-đề), phía tây có Ngưu hoá châu, phía bắc là Câu-lô châu, bên dưới có địa ngục, ngoài ra có chỗ cư ngụ của ngạ quỷ, súc sanh, tu-la, v.v… đơn vị thế giới này gọi là một tiểu thế giới. Một ngàn tiểu thế giới thì gọi là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới thì gọi là tam thiên đại thiên thế giới.
Khái niệm bồ-tát được biến hoá: Người tu hành hướng đến quả vị Phật-đà là Bồ-tát. Trong thời kỳ Phật giáo nguyên thuỷ, nói đến bồ-tát là chỉ cho đức Thích Ca khi còn trong thời kỳ tu hành, tức chỉ đức Bồ-tát Thích Ca mới gọi là Bồ-tát. Đến thời đại Phật giáo bộ phái, trong Đại Chúng bộ vốn đã nói có nhiều Phật-đà trong ba đời mười phương, thì khái niệm bồ-tát cũng có sự biến hoá. Không chỉ đức Thích Ca là bồ-tát mà bất cứ ai tu hành để đạt được qủa vị Phật-đà đều được gọi là Bồ-tát, tức khái niệm bồ-tát đã được phổ biến hơn. Phật giáo Đại thừa đã tiếp nhận điều này và làm phát triển hơn về tư tưởng Bồ-tát (xem chương thứ nhất: Sự khác biệt “thanh văn thừa và bồ-tát thừa”).
2.1.3. Về Phật-đà, Phật thân
Đến Phật giáo Đại thừa thì việc khảo sát về Phật-đà trở nên triết học hơn, Phật thân được cho là có hai loại, ba loại, bốn loại, v.v… tuỳ theo tính cách. Đó gọi là thuyết hai thân, thuyết ba thân, thuyết bốn thân.
Trong đó thuyết hai thân là chỉ cho hai chủng loại: sanh thân và pháp thân. Sanh thân là chỉ cho thân được sinh bởi cha mẹ, là đức Phật Thích Ca sinh ra ở thành Ca-tỳ-la nước Thích-ca. Pháp thân chính là pháp, tức bản chất của Phật-đà, là Phật thân lý tưởng mà pháp là đã cụ thể hoá.
Thuyết tam thân có đến mấy chủng loại. Trong đó thường thì được biết đến bởi (1) thuyết tam thân: pháp thân, báo thân, ứng thân, và (2) thuyết tam thân: tự tánh thân, thọ dụng thân, biến hoá thân. Thuyết tứ thân là (1) chia ứng thân trong thuyết tam thân ở trước thành ứng thân và hoá thân, thành ra tứ thân, và (2) chia thọ dụng thân trong thuyết tam thân sau thành tự thọ dụng thân và tha thọ dụng thân, thành ra tứ thân. Đại khái như sau.
|
|
Tam thân |
Tứ thân |
|
(1) |
Pháp thân |
Pháp thân |
|
Báo thân |
Báo thân |
|
|
Ứng thân |
Ứng thân |
|
|
Hoá thân |
||
|
(2) |
Tự tánh thân |
Tự tánh thân |
|
Thọ dụng thân |
Tự thọ dụng thân |
|
|
Tha thọ dụng thân |
||
|
Biến hoá thân |
Biến hoá thân |
Trong các thuyết trên, thuyết tam thân với pháp thân, báo thân, ứng thân là phổ biến nhất. Sau đây sẽ giải thích thêm về thuyết này.
(1) Pháp thân (dharma-kāya) là chỉ cho Phật chân lý, tức nhân cách hoá chân lý vốn là những giáo pháp của Phật nói. Nguồn gốc của tư tưởng này là năm phần pháp thân trong Phật giáo nguyên thuỷ và Phật giáo bộ phái, cho rằng bản thân năm giáo pháp: giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến là pháp thân. Pháp thân của trường hợp này là có ý nghĩa “tích tập / nhóm pháp”. Vì thân (kāya) có ý nghĩa là tích tập.
Tuy nhiên đến thời kỳ Phật giáo đại thừa thì pháp thân là Phật thân lý tưởng, vốn là người thể hiện chân lý, nhân cách hoá pháp (chân lý) đang biến mãn trong vũ trụ. Đó không phải là Phật-đà vốn là kết quả của sự tu hành, mà là lý Phật vốn tồn tại tự nhiên, bản lai. Với ý nghĩa này, pháp thân có thể chia thành ba chủng loại: (1) là lý về mặt giáo pháp, (2) là lý Phật mà lý ấy trở thành Phật thân lý tưởng, (3) là Phật thân hàm tàng trí tuệ trong lý ấy, và vốn có tác dụng nhậm vận vô tác.
Pháp thân Phật được xem là đối tượng tín ngưỡng thì chủ yếu là ở trường hợp thứ (3), đó là đức Đại Nhật Như Lai / Tỳ-lô-xá-na (Mahā-vairocana) trong Chân Ngôn tông, hay Thích Ca Mâu-ni Phật được cho là thường trụ ở Linh Thứu sơn trong Phẩm Như Lai Thọ Lượng của kinh Pháp Hoa là thuộc trường hợp này.
Thuyết tam thân của Thiền tông: Phật danh được xướng tụng trong thiền tông có Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ-lô-xá-na Phật, Viên Mãn báo thân Lô-giá-na Phật, Thiên bách ức hoá thân Thích Ca Mâu Ni Phật, đây là chỉ cho tam thân: pháp thân là Tỳ-lô-xá-na Phật, báo thân là Lô-giá-na Phật, hoá thân là Thích Ca Mâu Ni Phật. Tam thân này có nguồn gốc từ thuyết của Thiên Thai tông, Tỳ-lô-xá-na Phật là pháp thân được nói trong kinh Phổ Hiền Quán, Lô-giá-na Phật là báo thân hoá hiện trên ngàn cánh hoa bách ức đại tiểu Thích Ca Mâu Ni Phật nơi Liên hoa đài tạng thế giới của kinh Phạm Võng, và Thích Ca Mâu Ni Phật là hoá thân thiên bách ức trên ngàn cánh hoa trên.
(2) Báo thân: (sambhoga-kāya) cũng được dịch là thọ dụng thân, cũng được gọi là Đẳng Lưu thân (Niṣyanda-kāya). Là Phật thân đẳng lưu ra (lưu xuất ra một cách y nguyên) từ pháp giới, vì Phật thân lý tưởng vốn là đồng đẳng và lưu thông hoà nhập với pháp giới. Báo thân có nghĩa là bồ-tát tu hành ba-la-mật và hoàn thành thệ nguyện rồi, thì quả báo đạt được là thành Phật-đà một cách lý tưởng viên mãn hoàn toàn. Thọ dụng thân có ý nghĩa là Phật thân thọ dụng quả báo của công đức thiện căn. Thọ dụng thân có hai chủng loại là tự thọ dụng và tha thọ dụng. Tự thọ dụng là Phật quả vốn đã đạt được như là kết quả của việc tu hành, hay là Phật-đà tự mình thọ hưởng những pháp môn tự nội chứng của mình. Tha thọ dụng là Phật-đà làm cho những người khác thọ dụng pháp môn ưu việt hay quả của sự giác ngộ ấy, và dẫn dắt giáo hoá họ. Tuy nhiên đối tượng thuyết pháp của báo thân là bồ-tát sơ địa trở lên, pháp được nói là thậm thâm đệ nhất nghĩa, nên đối tượng nghe pháp không thể là địa tiền hay phàm phu. Và cũng có thuyết cho rằng, đúng báo thân là chỉ có tự thọ dụng thân, tha thọ dụng thân là thuộc về ứng thân.
Báo thân Phật được sùng bái trong tín ngưỡng thực tế là đức Phật A Di Đà (Amitāyus Vô Lượng Thọ, Amitābha Vô Lượng Quang) hay Phật Dược Sư (Bhaiṣajya-guru), v.v…
Đức Phật A-di-đà là giáo chủ cõi phương Tây, thuyết pháp trong suốt thời gian ba đời (vô lượng thọ), và trong không gian rộng lớn mười phương (vô lượng quang), để độ tất cả chúng sanh theo hạnh nguyện của ngài.
Đức Phật Dược Sư là giáo chủ cõi phương Đông, được xem là vị Phật cứu độ khổ bệnh cho chư chúng sanh. Cả hai trường hợp Phật này đều mang nặng ý nghĩa tha thọ dụng thân.
(3) Ứng thân: (nirmāṇa-kāya) cũng được dịch là hoá thân, hay ứng hoá thân, nghĩa là Phật thân vốn tạm thời hoá tác ra một hình dáng nào đó ứng với đối tượng giáo hoá để giáo hoá họ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện tại xã hội Ấn Độ gần hai ngàn sáu trăm năm trước là ứng thân, sáu vị Phật quá khứ và Phật Di Lặc trong tương lai cũng là ứng thân.
Ứng thân và hoá thân: Ứng thân cũng có trường hợp được chia thành hai chủng loại là ứng thân và hoá thân. Ứng thân ở đây là đức Phật ứng theo đối tượng mà hiện hình dáng phù hợp để thuyết pháp giáo hoá họ, là Phật thân với đầy đủ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, ứng hiện tuỳ theo thời đại hay địa phương. Hoá thân là hoá hiện ra nhiều hình dáng, bất kể là có tướng hảo hay không, như hiện ra hình dáng Phật, bồ-tát, phạm vương, đế thích, cả hình dáng của chúng sanh trong sáu loài để thuyết pháp giáo hoá. Như trường hợp Quán Thế Âm (Avalokiteśvara, Quán tự tại) bồ-tát để thuyết pháp cứu độ chúng sanh mà có hoá thân là 33 thân. Hay như Địa Tạng (Kṣitigarbha) bồ-tát là hoá thân với hình dáng tăng sĩ, là vị bồ-tát cứu độ chúng sanh trong tam giới lục đạo với hình dáng thanh văn. Những trường hợp bồ-tát này cũng được xem là hoá thân Phật.
2.1.4. Đức tánh của Phật-đà
Nơi Phật-đà có những đức tánh thường gọi là mười tám bất cộng Phật pháp gồm 10 lực, 4 vô uý, 3 niệm trụ, đại bi, về ngoại hình thì có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp của bậc vĩ đại. Và có mười hiệu Như Lai thể hiện đức tánh của Phật.
Mười tám bất cộng Phật pháp: (aṣṭādaśa āveṇika-buddha-dharmāḥ) là chỉ cho 18 chủng loại công đức đặc thù của đức Phật vốn không chung cùng với thanh văn, duyên giác, bồ-tát, v.v… Mười tám bất cộng Phật pháp này có hai hệ thống: một là của hệ bộ phái như Thuyết nhất thiết hữu bộ, một là của hệ đại thừa (*Kinh Đại Bát-nhã, v.v…), nhưng Phật giáo nam truyền cũng theo thuyết của đại thừa này.
Mười tám bất cộng Phật pháp của hệ bộ phái thanh văn là gồm 10 lực, 4 vô uý, 3 niệm trụ, đại bi của Phật.
Mười lực của Phật là (1) thị xứ phi xứ trí lực: trí lực biết rõ tính hợp đạo lý và không hợp đạo lý;
(2) Nghiệp dị thục trí lực: trí lực biết như thật về nghiệp thiện ác và quả báo của nghiệp ấy.
(3) Tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí trí lực: là trí lực biết thông thạo về 4 thiền, 8 giải thoát, 3 tam muội, 8 đẳng chí, v.v…
(4) Căn thượng hạ trí lực: trí lực biết như thật về căn cơ cao thấp ưu liệt của chúng sanh.
(5) Chủng chủng thắng giải trí lực: trí lực biết như thật về các chủng loại khuynh hướng ý muốn của chúng sanh.
(6) Chủng chủng giới trí lực: trí lực biết như thật về những sai biệt về tính loại và thế giới của chúng sanh.
(7) Biến thú hành trí lực: trí lực biết như thật về việc tiến tu trên con đường thế nào với pháp môn tu hành thế nào.
(8) Túc trụ tuỳ niệm trí lực: Trí lực biết đúng đắn vận mệnh trong đời quá khứ của chúng sanh, túc mệnh thông của Phật.
(9) Tử sanh trí lực: Trí lực biết đúng đắn về vận mệnh trong đời vị lai của chúng sanh, thiên nhãn thông của Phật.
(10) Lậu tận trí lực: Trí lực biết rằng đã đoạn tận tất cả phiền não chướng ngại và đạt sự giác ngộ của Phật, lậu tận thông của Phật.
(*A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận T1545.27.0156c19-23; Luận Câu Xá T 1559.29.233c10; Luận Du Già, Đại Thừa Trang Nghiêm cũng đề cập thuyết này).
Bốn vô uý: (catvāri vaiśāradyāṇi), cũng gọi là tứ vô sở uý. Đức Phật có sự tự tin tuyệt đối đối với bất cứ ai, dù đối với việc hỏi đáp luận biện với người khác cũng hoàn toàn không có sự e sợ. Có 4 mục về vô uý này: (1) nhất thiết trí vô uý (sự tự tin của Phật với tư cách là bậc nhất thiết trí), (2) lậu tận vô uý (sự tự tin của Phật về việc đã đoạn tận tất cả phiền não chướng ngại), (3) thuyết chướng đạo vô uý (sự tự tin của Phật, tự tại trong việc giảng thuyết về các pháp chướng ngại như phiền não, nghiệp, v.v…), (4) thuyết tận khổ đạo vô uý (sự tự tin của Phật, tự tại trong việc giảng thuyết về con đường tu hành như tam học giới định tuệ để đoạn trừ phiền não và khổ).
Ba niệm trụ (trīṇi smṛtyupasthānāni) là chỉ cho việc đức Phật thường có chánh niệm trong mọi trường hợp. Có ba trường hợp: (1) Đệ nhất niệm trụ (chúng sanh dù có tín phụng Phật thì đức Phật cũng an trụ trong chánh niệm chánh tri, không sanh lòng vui mừng), (2) Đệ nhị niệm trụ (chúng sanh dù không tín phụng Phật thì đức Phật cũng an trụ trong chánh niệm chánh tri, không sanh lòng ưu buồn), (3) Đệ tam niệm trụ (chúng sanh dù tín phụng hay phỉ báng Phật thì đức Phật cũng an trụ trong chánh niệm chánh tri, không sanh lòng vui mừng hay ưu sầu).
Đại bi (mahā-karuṇā): đức Phật thường có lòng đại từ bi mong muốn cứu giúp thống khổ cho chúng sanh.
Mười tám bất cộng Phật pháp của Đại thừa: Tuỳ theo điển tịch mà các hạng mục và cách xếp thứ tự có khác nhau nhưng thông thường thì như sau. (1) Thân vô thất (Thân nghiệp không lỗi lầm); (2) Khẩu vô thất (Ngữ nghiệp không lỗi lầm); (3) Ý vô thất (không thất niệm, ý nghiệp không lỗi lầm); (4) Vô dị tưởng (không có tâm ý phân biệt, bình đẳng đối với tất cả chúng sanh); (5) Vô bất định tâm (tâm luôn ở trong định, loại trừ tâm tán loạn bất an định cho chúng sanh); (6) Vô bất tri xả tâm (không xả bỏ chúng sanh, xem như không biết đến họ); Sáu hạng mục trên là từ giới học mà sinh ra, là nhân của vô trụ niết-bàn; (7) Tín vô giảm (có tịnh tín bất hoại đối với vô trụ niết-bàn); (8) Dục vô giảm (có ý chí hướng đến vô trụ niết-bàn không hề thoái giảm); (9) Tinh Tấn vô giảm (trong mọi trường hợp cũng đều không giảm bớt sự tinh tấn); (10) Tuệ vô giảm (trí tuệ không giảm để làm lợi ích cho chúng sanh); (11) Giải thoát vô giảm (không thoái giảm trong việc làm cho thể đắc giải thoát của đại thừa); (12) Giải thoát tri kiến vô giảm (không thoái giảm trong việc làm cho chúng sanh chứng đắc vô thượng niết-bàn); sáu hạng mục này là từ định học sanh, là duyên của vô trụ niết-bàn. (13) Thân nghiệp tùy trí tuệ hành; (14) khẩu nghiệp tùy trí tuệ hành; (15) ý nghiệp tùy trí tuệ hành (ba mục trên đây là ba nghiệp thân, khẩu, ý của Phật, thường luôn tương ưng đi cùng với trí tuệ). (16) quá khứ tri kiến vô trước vô ngại; (17) vị lai tri kiến vô trước vô ngại; (18) hiện tại tri kiến vô trước vô ngại (ba mục trên là về nhất thiết pháp của quá khứ vị lai hiện tại, Phật đều bình đẳng biết, phá diệt tướng hý luận, tri kiến ấy của Phật là vô trước vô ngại tự tại). Sáu hạng mục trên là từ huệ học mà sanh, là đương thể của vô trụ niết-bàn. (từ hệ Bát-nhã, Đại Trí Độ luận)
Ngoài ra cũng có 140 bất cộng Phật pháp. 140 là 32 tướng đại nhân, 80 tuỳ hảo, 4 nhất thiết chủng tịnh, 10 lực, 4 vô uý, 3 niệm trụ, 3 bất hộ, đại bi, vô vong thất pháp, vĩnh hại tập khí, nhất thiết chủng diệu trí. (Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 177, Du Già Luận 49).
2.1.5. Mười hiệu của Như Lai
Đó là (1) Như Lai, (2) Ưng Cúng, (3) Chánh Biến Tri, (4) Minh Hành Túc, (5) Thiện Thệ, (6) Thế Gian Giải, (7) Vô Thượng Sĩ, (8) Điều Ngự Trượng Phu, (9) Thiên Nhân Sư, (10) Phật, (11) Thế Tôn, tức có 11 hiệu, nhưng trong đó, có thuyết giải thích rằng ngoại trừ hiệu Như Lai đầu tiên thì còn 10 hiệu, cũng có thuyết cho rằng hai hiệu sau cùng là Phật, Thế tôn là một thì thành 10 hiệu, nhưng thuyết 10 hạng mục ngoại trừ hiệu Như Lai đầu, là cách đếm 10 hiệu được nói trong kinh điển nguyên thuỷ. Câu kinh thường thấy giải thích về Phật bảo trong kinh A-hàm là 10 hiệu này. Dưới đây là giải thích lần lượt về 11 hiệu.
(1) Như Lai (tathāgata: tathā-āgata) có khi được dịch nghĩa là Như khứ (tathā-gata). Như lai có nghĩa là “vị đến một cách như thật” “vị đến từ chân như”, từ pháp giới chân như mà đến và chứng ngộ chân như, hoạt động giáo hoá như thật, và như thật mà ra đi, nên là từ đồng nghĩa với Phật-đà.
Từ này trước thời của Phật giáo đã được sử dụng trong ngoại đạo với ý nghĩa là “người đã giải thoát khỏi luân hồi sanh tử”, trong Phật giáo có lẽ cũng sử dụng nó đại khái với ý nghĩa này. Trong kinh điển nguyên thuỷ sử dụng từ “Như Lai” với hình thức số nhiều, ý nghĩa là bậc chân nhân lý tưởng đã giải thoát khỏi luân hồi, và sử dụng với ngôi nhân xưng thứ ba, không có trường hợp nào với ngôi nhân xưng thứ nhất, tức đức Phật gọi bản thân là “Như Lai” cả.
“Phật-đà” là từ ngữ mà người đương thời trân trọng, chỉ cho sự hy hữu, và có lẽ đối với đức Phật, từ “Như Lai” cho thấy một nhân cách hoàn bích hơn, nên ngài đã tránh dùng để tự nói mình là một trong những Như Lai. Và trong đời sau này từ “Như Lai” đã được sử dụng không ý thức phân biệt với từ “Phật”. Ví dụ như nói A-di-đà Phật là A-di-đà Như Lai, Dược Sư Phật là Dược Sư Như Lai, v.v…
(2) Ứng Cúng (arhan: √arh, arahan), được dịch âm là A-la-hán, cũng nói lược thành La-hán. Nguyên gốc ý nghĩa của từ A-la-hán là “người xứng đáng để cúng dường” “người có tư cách nhận sự cúng dường”. Bởi vì A-la-hán là người có nhân cách ưu việt, đã đoạn trừ tất cả phiền não, bản thân sự tồn tại của vị ấy đã có công đức ưu việt là để cảm hoá dẫn dắt chúng sanh.
Do đó được nói rằng, nếu cúng dường vật ăn mặc ở cho người như vậy thì phước báo mà người cúng dường có được sẽ gấp nhiều lần số phẩm vật đã cúng. A-la-hán được nói là phước điền (puṇya-kṣetra, puñña-khetta), tức có ý nghĩa rằng bậc A-la-hán như là thửa ruộng thù thắng làm cho chúng sanh thu hoạch được hạnh phúc. Nên đương nhiên, đức Phật là a-la-hán.
Trong hàng đệ tử của Phật, người đạt được quả vị chứng ngộ tối cao cũng được gọi là a-la-hán. Từ điểm này thì có thể nói rằng, cả đức Phật và đệ tử của ngài đều là a-la-hán như nhau. Tuy nhiên có nơi trong Phật giáo đại thừa xem a-la-hán không hoạt động giáo hoá, điều này là đã chệch khỏi ý nghĩa ban sơ của từ này. Ngoài ra, cũng gọi A-la-hán là bậc lậu tận (kṣīṇāsrava, khīṇāsava, tức bậc đã diệt tận tất cả phiền não), hay bậc vô học (aśaikṣa, asekha, bậc không còn gì để học). Và cũng có giải thích về a-la-hán là sát tặc, tức là “người đã diệt giặc phiền não”, nhưng đây là giải thích dựa vào cách giải thích ngữ nguyên của tục ngữ: arihan (ari: giặc, han: sát hại).
(3) Chánh Biến Tri (samyak-sambuddha, sammā-sambuddha), dịch âm là tam-miệu tam-phật-đà, cũng được dịch ý là chánh đẳng giác. Cũng có trường hợp thêm từ “vô thượng” (anuttara: a-nậu-đa-la) vào trước từ này. Sự chứng ngộ của đức Phật là khác với sự chứng ngộ của thanh văn hay độc giác, vì thù thắng vượt trội hơn nên để phân biệt với đó mà gọi là chánh biến tri. Sự chứng ngộ ấy được gọi là a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề (anuttara samyaksambodhi) hay A-nậu bồ-đề, khác với thanh văn bồ-đề (śrāvaka-bodhi) hay bích-chi bồ-đề (pratyeka-bodhi).
(4) Minh Hành Túc (vidyācaraṇa-sampanna, vijjācaraṇa-sampanna), có ý nghĩa là có đủ minh (trí tuệ) và hành (thể nghiệm). Cả phương diện trí tuệ lý luận và cả phương diện thực tế thể nghiệm, đức Phật đều có đầy đủ và hoàn hảo ưu việt, nên gọi là minh hành túc. Lý luận của Phật giáo có đủ tính hợp lý, tính luân lý, tính tôn giáo, v.v…, tôn giáo ấy có cơ sở lý luận của tín ngưỡng thực tiễn, không nói đến những lý luận suông. Và thực tiễn ấy có lý luận đi cùng, không có yếu tố tà kiến mê tín. Bậc khai sáng một tôn giáo như thế gọi là bậc minh hành túc.
(5) Thiện Thệ (sugata), cũng được dịch âm là tu-ca-đà 修伽多, dịch ý là hảo khứ. Có ý nghĩa là bậc đi qua bờ bên kia một cách như thật, không bị chìm đắm trong biển sanh tử. Do vì đi trên thánh đạo thiện tịnh, có thể đi vào cõi thiện diệu niết-bàn bất tử, v.v… nên gọi là thiện thệ.
(6) Thế Gian Giải (lokavid, lokavidū) có ý nghĩa là bậc khéo lý giải thế gian. Thế gian gồm có hữu tình thế gian và khí thế gian (hay hành thế gia, hữu tình thế gian, không gian thế gian), nhưng trong kinh điển nguyên thuỷ, khi nói đến thế gian là chỉ cho hữu tình thế gian, tức chỉ cho con người thế gian. Và thế gian (loka) là đối lập với xuất thế gian (lokottara), khác với xuất thế gian là cảnh giới của sự chứng ngộ, thế gian là thế giới của tam giới lục đạo mê muội. Đức Phật biết rõ về cảm tình, tính cách, căn cơ, v.v… của tất cả hữu tình trong thế gian, và theo đó để thuyết pháp thích hợp với họ, thúc đẩy chúng sanh hướng đến lý tưởng, và dẫn dắt cứu giúp cho chúng sanh. Tức là đức Phật biết về thế gian, về sự tập của thế gian, về sự diệt của thế gian, về con đường dẫn đến sự tịnh diệt của thế gian, và tuỳ theo đó mà giáo hoá.
(7) Vô Thượng Sĩ (anuttara) có ý nghĩa là bậc tối thượng tối cao không gì hơn nữa.
(8) Điều Ngự Trượng Phu (puruṣa-damya-sārathi, purisadamma-sārathi) có nghĩa là “bậc cai quản của con người cần điều phục”. Là bậc khéo huấn luyện tất cả mọi người, Phật tuỳ theo tình huống của chúng sanh, tuỳ khi nhu tuỳ khi cương, hay tuỳ khi vừa nhu cương kiêm dụng để điều phục người, dẫn dắt họ vào tín ngưỡng hay tu hành chứng quả, nên gọi Phật là điều ngự trượng phu.
(9) Thiên Nhân Sư (śāstā devamanuṣyānām, satthā devamanussānaṃ) là thầy của chư thiên và loài người, nghĩa là đại đạo sư của ba cõi.
(10) Phật (buddha) là bậc giác giả như đã nói ở trước, bậc đã tự mình giác ngộ và làm cho người khác giác ngộ.
(11) Thế Tôn (bhagavat) được dịch âm là bà-già-bà婆伽婆, bà-già-phạm 薄伽梵, bạc-già-phạm 薄迦梵v.v…, được dịch nghĩa Hán là Tôn hựu (尊祐), nghĩa là “người có (vat) thuỵ đức (bhaga)”. Trong đó, Thuỵ đức (bhaga) là chỉ cho tự tại, pháp xuất thế gian, đáng khen ngợi tôn quý, v.v… nên với việc có thuỵ đức thì được thế gian tôn kính, là người tôn quý bậc nhất trong thế gian. Từ Lokanātha (thế chủ) cũng được dịch là thế tôn, nhưng trong kinh điển thường dùng từ bạc-già-phạm (thế tôn, bhagavat).
2.2. Pháp
Pháp (dharma, dhamma) được dịch âm là đàm-ma hay đạt-ma, một trong ba ngôi báu, pháp là giáo pháp do đức Phật tuyên thuyết. Pháp này cũng được chia thành hai hạng mục như sau.
(1) Ngôn giáo năng tuyên: tức là các chủng loại kinh điển được khắc, viết bằng văn tự, được biểu hiện bằng văn tự ngôn ngữ.
(2) Giáo lý sở tuyên: tức những nội dung giáo lý về tư tưởng, học thuyết, v.v… được bao hàm trong kinh điển.
Ngôn giáo là thuộc hình thức, giáo lý là thuộc nội dung. Dưới đây là giải thích cho hai hệ thống này.
2.2.1. Hệ thống ngôn giáo – thánh điển
Kinh điển về hình thức được biểu thị bởi (1) chín phần giáo hay mười hai phần giáo, và (2) tam tạng kinh luật luận, v.v…
2.2.1.1. Chín phần giáo và mười hai phần giáo
Về sự kiện lịch sử trong Phật giáo, có lẽ không có việc phân chia kinh điển thành 9 phần giáo hay 12 phần giáo (12 bộ kinh), nhưng khi nhìn giáo pháp của Phật theo hình thức, thì có thể thấy 9 chủng loại hay 12 chủng loại, cả trong Phật giáo nguyên thuỷ, trong Phật giáo bộ phái và cả trong Phật giáo đại thừa. Sự phân loại này để hỗn độn chung cả cái thuộc hình thức biểu hiện và cái thuộc nội dung giáo thuyết, nên có thể nói, đó là sự phân loại chưa có tính nghiêm mật cụ thể. Và bản thân giáo pháp được phân loại trong 12 phần giáo cũng có phạm vi không nhất định, tuỳ theo thời đại, bộ phái hay học phái.
Ví dụ, trong thời đại Phật giáo nguyên thuỷ, chỉ gọi kinh trong tam tạng kinh luật luận là pháp, và phân loại nó thành 9 loại hay 12 loại. Nhưng trong thời Bộ phái Phật giáo thì không chỉ kinh mà còn thêm luật vào trong đó, và rồi cũng thêm cả luận vào. Rồi đến thời Phật giáo đại thừa thì không chỉ tam tạng của thanh văn mà gom cả tam tạng của đại thừa, đưa cả chúng vào trong 12 phần giáo. Hạng mục và thứ tự liệt kê của 9 phần giáo hay 12 phần giáo thì tuỳ theo bộ phái và hệ văn bản mà có khác nhau đáng kể. Dưới đây chỉ nêu ra đại biểu.
Chín phần giáo: Chín phần giáo của Phật giáo Pāli: giáo pháp của Phật trong thời đại Phật giáo nguyên thuỷ là gồm “pháp và luật”, tức kinh điển, là những thuyết pháp của Phật (pháp), và giới luật, là những quy định sinh hoạt cho giáo đoàn xuất gia (luật), và trong đó, phân loại riêng pháp ra thành 9 loại, không bao hàm luật. Chín phần giáo được nói ở đây là (1) sutta 修多羅, kinh 経, (2) geyya 祇夜, trùng tụng 重頌, (3) vyākaraṇa 和伽羅那, ký thuyết 記説thọ ký 授記, (4) gāthā 伽陀, kệ偈, (5) udāna 優陀那, tự thuyết 自説, (6) itivuttaka 伊帝曰多伽, như thị ngữ 如是語, (7) jātaka 闍多伽 bổn sanh 本生, (8) abbhutadhamma 阿浮陀達磨 vị tằng hữu 未曾有法, (9) vedalla 毘陀羅 →vaipulya毘仏略 phương quảng 方広.
Mười hai phần giáo: các hạng mục của 12 phần giáo đều đồng nhất cả trong bộ phái Phật giáo hay đại thừa Phật giáo, nhưng cách liệt kê thì có khác ít nhiều. Để tiện tham chiếu sau đây liệt kê 12 phần giáo ứng với 9 phần giáo trên, đại khái như sau.
|
(1) sūtra 修多羅, kinh 経 |
(1) sutta |
|
(2) geya 祇夜, trùng tụng重頌, ứng tụng 応頌 |
(2) geyya |
|
(3) vyākaraṇa 和伽羅那, ký biệt 記別 ký thuyết 記説 thọ ký 授記 |
(3) vyākaraṇa |
|
(4) gāthā 伽陀, kệ 偈, phúng tụng諷誦 |
(4) gāthā |
|
(5) udāna 優陀那, tự thuyết 自説 |
(5) udāna |
|
(6) nidāna 尼陀那 nhân duyên, |
X |
|
(7) avadāna 阿婆陀那 thí dụ 譬喩 |
X |
|
(8) itivṛttaka 伊帝曰多伽, như thị ngữ 如是語, bổn sự |
(6) itivuttaka |
|
(9) jātaka 闍多伽 bổn sanh 本生 |
(7) jātaka |
|
(10) vaipulya 毘仏略phương quảng 方広 |
(9) vedalla毘陀羅 → vaipulya 毘仏略 |
|
(11) adbhutadharma 阿浮陀達磨 vị tằng hữu 未曾有法 |
(8) abbhutadhamma |
|
(12) upadeśa 優婆提舎 luận nghị論議. |
X |
Giải thích từng mục của 12 phần giáo:
(1) Khế kinh (sūtra, sutta, tu-đa-la 修多羅, kinh 経, tuyền kinh 線経): Về nghĩa rộng thì gọi toàn thể 12 phần giáo là 12 bộ kinh là kinh, và ví dụ như gọi toàn bộ Phật điển Hán dịch là nhất thiết kinh hay đại tạng kinh. Đây là kinh theo ý nghĩa rộng nhất. Cũng có trường hợp là gọi toàn bộ kinh tạng trong tam tạng kinh luật luận là kinh. Còn kinh trong 12 phần giáo thì phạm vi ý nghĩa hẹp nhất so với trên.
Đó là chỉ cho riêng loại kinh điển có hình thức văn học gọi là kinh. Kinh (sūtra) của ý nghĩa này thì trước thời Phật giáo và sau Phật giáo, đều có trong ngoại đạo. Như kinh thư (Sūtra or Kalpa-sūtra), kinh Yoga (Yoga-sūtra), kinh Vedānta (Vedānta-sūtra or Brahma-sūtra) của Bà-la-môn giáo. Cái gọi là hình thức văn học “kinh” là tập hợp đoạn văn xuôi nói về những điểm trọng yếu một cách giản khiết.
Vốn dĩ, sūtra có ý nghĩa là sợi chỉ hay đường kẽ, giống như kết hoa vào sợi chỉ dài để tạo thành vòng hoa, sūtra (kinh) cũng chỉ cho một loại hình thức văn học được tạo thành nhờ liên kết những đoạn văn đơn giản lại. Kinh trong 9 phần giáo hay 12 phần giáo cũng là cái có ý nghĩa như vậy, tức gọi những thuyết pháp đơn giản của Phật hình thành từ những đoạn văn xuôi là kinh. Và tập hợp những điều văn của tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni trong luật tạng, vì được hình thành từ những đoạn văn giản khiết, nên cũng gọi tập hợp điều văn (giới bổn) ấy là giới kinh (Prātimokṣa-sūtra, Pāṭimokkha-sutta), chú giải cho giới kinh ấy gọi là kinh phân biệt (Sūtra-vibhaṅga, Sutta-vibhaṅga).
(2) Kỳ-dạ (geya, geyya 祇夜, trùng tụng 重頌, ứng tụng 応頌): Ý nghĩa ban sơ của từ này là “cái cần ca hát”, nhưng với tư cách là hình thức văn học thì là dạng mà dùng văn vần để lặp lại và bổ túc thêm cho những gì đã nói bằng văn xuôi. Tức hình thức thuyết pháp của Phật có cả văn xuôi và văn vần (kệ) trùng tụng, gọi đó là kỳ-dạ. Ứng tụng có nghĩa là “văn vần (kệ) ứng với văn xuôi”, trùng tụng có nghĩa là “nói kệ tụng bằng cách lặp lại văn xuôi”.
(3) Ký biệt (vyākaraṇa, veyyākaraṇa 和伽羅那, ký biệt 記別ký thuyết 記説thọ ký 受記, huyền ký 懸記): Về mục này, dụng pháp của trường hợp Phật giáo nguyên thuỷ hay Phật giáo bộ phái và Phật giáo đại thừa có ít nhiều biến hoá về mặt nội dung. Ý nghĩa ban sơ của vyākaraṇa là “văn chương giải thích thể vấn đáp”, và kế đó nó cũng được sử dụng với ý nghĩa là “cái nói một cách cụ thể bằng cách giải thích cho cái đơn giản”. Ở giai đoạn này nó tương ứng với từ ký thuyết hay ký biệt. Đến thời kỳ đại thừa thì không còn đơn giản là hình thức văn chương như ở trên mà việc đức Phật dự ngôn về tương lai của chư đệ tử, đặc biệt là “dự ngôn thành Phật”, gọi đó là thọ ký 受記 hay thụ ký 授記, và có tính cách ý nghĩa nội dung ấy nơi từ này. Như thế, mục này ý nghĩa ban đầu là ký thuyết, và sau đó nó được xem là thọ ký (thụ ký).
(4) Phúng tụng (gāthā 伽陀, kệ偈, phúng tụng 諷誦): là hình thức văn học hình thành từ chỉ văn vần. Ví dụ như kinh Pháp Cú, Trưởng lão kệ, Trưởng lão ni kệ, v.v…
(5) Tự thuyết (udāna 優陀那, vô vấn tự thuyết 無問自説, cảm hứng ngữ 感興語): là nói đến những ngôn thuyết được nói ra một cách tự nhiên khi có sự kiện gì đó có cảm hứng hay cảm động. Trường hợp đệ tử Phật cũng có tự thuyết, nhưng nơi 9 phần giáo hay 12 phần giáo thì chủ yếu là chỉ cho tự thuyết của Phật. Thường thì đức Phật được người khác thỉnh rồi mới thuyết pháp, nhưng trường hợp tự thuyết là không ai thỉnh mà ngài tự nói. Tự thuyết vốn dĩ không phải là hình thức văn chương, mà là cái có ý nghĩa giáo pháp do tự thuyết, về hình thức thì cũng có cả văn xuôi và văn vần.
Tuy nhiên Pāli Tiểu bộ kinh có kinh Tự thuyết (Udāna), gồm có 80 kinh điển được cho là Phật tự thuyết. Nơi các kinh điển ấy đều có câu chuyện nhân duyên về việc trong trường hợp nào mà đức Phật nói kinh ấy, và cuối cùng nêu ra điều tự thuyết, nhưng ngay trước điều tự thuyết ấy đều có câu văn cố định như sau. “Atha kho bhagatā etam atthaṃ viditvā tāyaṃ velāyaṃ imaṃ udānaṃ udānesi” (như thế đức Thế Tôn sau khi biết nghĩa này, khi đó, ngài nói ra tự thuyết như vầy). Tức có thể nói là gọi cái có hình thức văn học với câu văn cố định như thế là tự thuyết. Kinh có câu văn cố định như vậy thì ngoài kinh Tự Thuyết ra cũng có thể nhìn thấy ít nhiều trong các kinh Pāli A-hàm.
Và ngoài ra, trong Thuyết Nhất thiết hữu bộ có Udānavarga trong Tạp tạng (優陀那品、自説品、法集要頌經 T0213), đó là một tập hợp gồm 33 phẩm khoảng 950 kệ, là cái tương đương với kinh Pháp Cú Pāli, thật ra đó là bản ghi chép tập hợp phân loại kinh Pháp cú, những kệ của kinh tự thuyết và những kệ tụng trong các kinh điển khác.
(6) Nhân duyên (nidāna 尼陀那): loại này chỉ cho những câu chuyện mang tính chất lời tựa về việc một pháp thoại nào đó đã được nói dựa trên sự kiện nhân duyên thế nào. Đó là (a) nhân duyên được nói nơi kinh điển thông thường, (b) những câu chuyện về nhân duyên mà một kệ tụng nào đó được nói ra, (c) những câu chuyện nhân duyên vốn dẫn đến một quy định về điều giới v.v… của luật được quy định, v.v… Trong 9 phần giáo thì không có mục Nhân duyên, nhưng với chương tựa của chuyện bổn sanh, việc tu hành trong đời quá khứ cho đến sự thành đạo trong đời hiện tại của đức Thế Tôn được nêu ra như thể là chuyện nhân duyên (Nidāna-kathā), nên đó cũng có thể nói là nhân duyên. Tuy nhiên đó không phải là Phật thuyết mà là phần chú thích của người đời sau.
(7) Thí dụ (譬喩, avadāna, apadāna 阿婆陀那, 阿波陀那): mục này cũng có phát sinh sự biến hoá về ý nghĩa nội dung theo thời đại, bởi bộ phái Phật giáo. Vốn dĩ được xem là “chuyện về hành vi mang tính chất anh hùng”, có liên quan với thuyết nhân quả nghiệp báo, một người nào đó trong hiện tại có những điều tốt đẹp là do vì người đó trong đời trước đã thực hành thiện hạnh mang tính chất anh hùng, gọi câu chuyện về một chuỗi từ quá khứ đến hiện tại như thế là thí dụ. Đó cũng là câu chuyện mang tính chất giáo huấn bởi nghiệp báo nhân quả, nên cũng có thể gọi là “câu chuyện giáo huấn”. Nhân tiện, “chuyện về hành vi mang tính chất anh hùng” của đức Thích Tôn thì được cho là bổn sanh (jātaka), nhưng bổn sanh thật ra cũng là một chủng loại thí dụ, bổn sanh cũng có thể nói là bồ-tát thí dụ (bodhisattva-avadāna). Thông thường thì gọi chuyện tiền sanh của đệ tử Phật v.v… là thí dụ.
Trong kinh A-hàm của Hán và Pāli có kinh Đại Bản (Mahā-apadāna-suttanta Đại thí dụ kinh) của Trường Bộ (Trường A Hàm), Trường Thọ Vương Bổn Khởi kinh (= Trường Thí Dụ) của Hán dịch Trung A-hàm, v.v… , nhưng trong kinh Đại Bản thì nói đến nhân duyên của Phật quá khứ, kinh Trường thọ vương bổn khởi thì kể câu chuyện của Trường thọ vương và vương tử Trường Sanh trong đời quá khứ. Đó có thể nói là “câu chuyện giáo huấn về hành vi mang tính chất anh hùng với sự việc xảy ra trong đời quá khứ”.
Trong các bộ phái như Thuyết Nhất thiết hữu bộ v.v… về sau thì các kinh điển thí dụ được chế tác nhiều, nhưng ở đây thí dụ là “câu chuyện giáo huấn” hay chỉ là “câu chuyện”, tức có ý nghĩa hơi nhẹ hơn. Như kinh A-dục vương thí dụ (Aśokāvadāna), Thiên thí dụ (Divyāvadāna), Bách dụ kinh (Avadānaśataka), Tạp thí dụ kinh, v.v…
(8) Bổn sự (itivṛttaka, itivuttaka 伊帝曰多伽, như thị ngữ 如是語): mục này, giữa Như Thị Ngữ (itivuttaka) trong Phật giáo Pāli và Bổn Sự (itivṛttaka) trong Thuyết Nhất thiết hữu bộ cũng có thể nhìn thấy nội dung khác nhau. Như thị ngữ có nghĩa là “cái được nói như vậy” (iti-vutta-ka), bổn sự có nghĩa là “cái đã chuyển khởi như vậy” “sự việc đã xảy ra trong quá khứ” (iti-vṛtta-ka), tức ý nghĩa của hai bên hoàn toàn khác nhau. Như thị ngữ mà Pāli giải thích là như có thể thấy trong kinh Như Thị Ngữ (Itivuttaka, 4 tập, 112 kinh) trong Tiểu bộ kinh Pāli hiện tại, có câu cố định nơi đoạn đầu của các kinh là: Vuttaṃ hetaṃ bhavagatā vuttaṃ arahatā ti me sutaṃ (thật vậy, điều này đã được nói bởi đức Thế Tôn, đã được nói bởi bậc A-la-hán, tôi đã nghe thế), và sau thuyết pháp của đức Phật cũng có câu văn cố định đặc trưng của kinh Như thị ngữ.
Trái lại, kinh Bổn Sự (itivṛttaka) có ý nghĩa là “cái nói về những việc xảy ra trong quá khứ” “câu chuyện của đời quá khứ”, nhưng chuyện đời quá khứ của thời đại bồ-tát của đức Thích Tôn thì đã được thiết lập với Bổn Sanh trong 9 phần giáo hay 12 phần giáo, nên ngoài đó ra thì là chuyện đời quá khứ của chư đệ tử Phật. Tuy nhiên, chuyện đời quá khứ của chư đệ tử Phật cũng đã ứng vào mục Thí Dụ, nên cũng có thể hiểu “câu chuyện đời quá khứ” không được bao hàm trong Bổn Sanh và Thí Dụ là có ý nghĩa chỉ cho những câu chuyện xảy ra về thế giới của quá khứ Phật, hay chuyện về chuyển luân vương, v.v… Nhưng dù gì thì ý nghĩa cũng không rõ ràng cho lắm. Với ý nghĩa như vậy có lẽ nên hiểu Bổn Sự vốn dĩ là Như Thị Ngữ như Pāli.
(9) Bổn sanh (本生 jātaka 闍多伽): Đây là chuyện tiền sanh của đức Phật, chuyện kể về đức Phật trong thời đại bồ-tát đã làm con người như Sa-môn, Bà-la-môn, quốc vương, đại thần, thương nhân, v.v… hay làm thiên thần, hay làm các loài động vật, để tu hành thiện hạnh ba-la-mật. Trong Tiểu Bộ kinh Pāli có kể đến kinh Bổn Sanh gồm khoảng 550 câu chuyện. Trong Tiểu Bộ kinh ngoài ra còn có Hành Tạng kinh (Cariyā-piṭaka) gồm 34 chuyện, nhưng đây cũng là 1 loại bổn sanh.
Sanh kinh hay Lục Độ Tập kinh v.v… thuộc kinh Bổn Sanh của Hán dịch là bộ sưu tập chỉ những phần thuộc chuyện đời quá khứ, không có phần kệ văn và chuyện đời hiện tại. Và Hành Tạng kinh Pāli thì chỉ nói đến ba-la-mật-đa hành của đời quá khứ bằng văn vần.
(10) Phương quảng (方広, vaipulya 毘仏略 ← vedalla: Tỳ-đà-la 毘陀羅, hữu minh 有明): Cũng có ý nghĩa khác nhau giữa vaipulya của Phạn ngữ và vedalla của Pāli, nên giữa hai bên có khác nhau về nội dung. Trước tiên vedalla là chỉ cho thể kinh điển vấn đáp theo hình thức đặt câu hỏi để thoả mãn tri thức và trả lời cho câu hỏi ấy. Tức Vedalla là “hỏi đáp giáo lý sâu rộng hơn”. Hiện trong Trung Bộ Pāli có kinh Mahāvedalla-sutta (kinh số 43) và Cuḷavedalla-sutta (kinh số 44), trong đó có hình thức hỏi đáp giáo lý sâu hơn như vậy.
Kế đến, Vaipulya được dịch là phương quảng, thường thì phương quảng là nói đến đại thừa. Từ này về ngữ nghĩa thì có nghĩa là “quảng thuyết những pháp nghĩa thậm thâm”. Vốn dĩ là chỉ cho kinh điển được quảng thuyết trong bộ phái Phật giáo, khi đại thừa Phật giáo xuất hiện thì từ nghĩa này được sử dụng để chỉ cho kinh điển đại thừa. Ví dụ như kinh Hoa Nghiêm được gọi là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh. Và Phương quảng cũng gọi là Phương đẳng (vaitulya, vetulla).
(11) Vị tằng hữu (未曾有法 adbhutadharma, abbhutadhamma 阿浮陀達磨): là chỉ cho những gì đức Phật nói về việc đã xảy ra bất tư nghì. Vị tằng hữu đại khái có những ý nghĩa như: (a) là đệ nhất nghĩa của Phật giáo vốn khác với thế gian, (b) đó là sự việc xảy ra bất tư nghì như là thần thông kỳ tích, (c) là sự việc xảy ra trong trời đất của thế giới tự nhiên. Với tư cách là kinh điển thì trong Trung Bộ 123 có kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu Pháp (Acchariya-abbhutadhamma-sutta), ở Hán dịch Trung A-hàm có Phẩm Vị Tằng Hữu, gồm 10 kinh. Ngoài ra, trong Tăng Chi Bộ cũng có nói đến nhiều pháp vị tằng hữu. Những vị tằng hữu được nói ở đấy phần nhiều mang ý nghĩa thứ hai trong giải thích ở trên.
(12) Luận Nghị (upadeśa 優婆提舎 luận nghị 論議): từ này có ý nghĩa là quảng thuyết, đối lập với ý nghĩa lược thuyết, chỉ cho những thuyết pháp mang tính chất chú thích chi tiết. Không nhất thiết là của Phật nói mà cả những loại luận thư a-tỳ-đàm của hậu thế v.v… cũng được bao hàm trong Luận Nghị này. Chú thích có nghĩa là phân biệt (vibhaṅga) cho những lược thuyết trong kinh điển nguyên thủy, và phân biệt cho kinh theo ý nghĩa này thì có thể thấy ở một vài nơi trong kinh A-hàm. Và ngoài ra, Nghĩa thuyết (niddesa, Nghĩa thích) cho Tổng thuyết (uddesa, Pháp thuyết) cũng có ý nghĩa là giải thích.
Trong Tiểu Bộ Pāli có cái gọi là Nghĩa thích (Niddesa), đây là chú thích thư cho một bộ phận suttanipāta (Kinh Tập) vốn được bao hàm cùng trong Tiểu Bộ Kinh.
Luận Nghị cụ thể là chỉ cho luận thư A-tỳ-đạt-ma, nhưng Nghĩa thích cũng là cái đi trước của A-tỳ-đạt-ma. Đến thời Phật giáo đại thừa thì có những điển tịch như Diệu Pháp Liên Hoa kinh Ưu-ba-đề-xá, Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-ba-đề-xá, Chuyển Pháp Luân Kinh Ưu-ba-đề-xá, tức là chú thích cho Kinh Pháp Hoa, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Chuyển Pháp Luân, v.v… gọi là Ưu-ba-đề-xá. Tên gọi Ưu-ba-đề-xá dường như không được sử dụng trong chú thích thư của A-tỳ-đạt-ma, chú thích cho luận thư ở đấy được gọi là Tỳ-bà-sa (vibhāṣa) hay thích luận (vyākhyā). Tức là Ưu-ba-đề-xá là cái giải thích cho kinh điển Phật thuyết, luận thư A-tỳ-đạt-ma giải thích cho giáo pháp của kinh A-hàm v.v… của Phật thuyết được xem là Luận Nghị (upadeśa) là vì vậy.
Trên đây là giải thích cho 9 phần giáo và 12 phần giáo. Như trước có nói, trong phân loại này có cái theo hình thức biểu hiện (khế kinh, ứng tụng, kệ), cũng có cái theo hình thức hay phương pháp mô tả (tự thuyết, như thị ngữ, tỳ-đà-la, phương quảng, luận nghị), cũng có cái theo tính chất nội dung được nói (nhân duyên, thí dụ, bổn sanh, vị tằng hữu pháp), cũng có trường hợp một kinh Phật thuyết mà có thể thuộc hai, ba hạng mục, có thể thấy rằng, tam tạng thánh điển chưa được phân loại cụ thể rõ ràng trong 9 phần giáo hay 12 phần giáo.
2.2.1.2. Tam tạng kinh luật luận
(1). Pháp và luật
Phân loại cụ thể cho giáo pháp là phân loại thành tam tạng kinh luật luận. Giáo pháp đã thực tế tồn tại trong thời đại của đức Thích Tôn là “pháp và luật” dhamma-vinaya. “Pháp và luật” chính là Phật giáo. Bước vào trong “pháp và luật” này tức là bước vào trong Phật giáo.
Pháp (dhamma) ở đây là chỉ cho “những kinh điển vốn là thuyết pháp của Phật”. Về sau thu thập những thuyết pháp ấy thành kinh tạng. Tuy nhiên trong kinh điển ấy không chỉ có những thuyết pháp trực tiếp bởi đức Phật mà còn hàm hợp nhiều yếu tố được nói bởi chư đệ tử tại gia xuất gia, bởi các thần Phạm thiên đế-thích, v.v… Tuy nhiên cho dù không phải là thuyết pháp của đức Phật, nhưng vì đã được đức Phật chứng minh, hứa khả cho là đúng, nên cũng có thể xem là Phật thuyết.
Luật (vinaya) là tập hợp những quy tắc sinh hoạt thường nhật của giáo đoàn xuất gia của Phật giáo, những quy định này cũng đều là do đức Phật chế định, nên được đưa vào mục Phật thuyết theo nghĩa rộng. Dù thế nào, từ thời kỳ đức Thích Tôn tại thế cho đến thời đại Phật giáo nguyên thuỷ thì, “pháp và luật” đã tồn tại với tư cách là tất cả pháp tài của Phật giáo.
Cuộc kết tập lần thứ nhất: Ngay sau khi đức Thích Tôn nhập diệt, để truyền đạt pháp tài về “pháp và luật” này lại cho hậu thế một cách đúng đắn, theo đề xuất của trưởng lão Ma-ha Ca-diếp (Mahākassapa), ngay trong mùa mưa năm đó, tại hang Thất Diệp ngoại thành Vương Xá thủ đô nước Magadha, “Pháp và Luật” mà khi đức Phật còn tại thế đã thuyết giảng, đã được kết tập lại bởi 500 vị A-la-hán ưu tú nhất trong hàng đệ tử Phật. Đây gọi là cuộc kết tập lần thứ I. Cũng được gọi là cuộc kết tập thành Vương Xá hay cuộc kết tập 500 vị.
Kết tập (saṅgīti) ở đây có ý nghĩa là “hợp tụng” (cùng nhau đọc tụng), chư vị A-la-hán tập hợp lại cùng đọc tụng pháp và luật, xác nhận xem điều này có trái Phật thuyết hay không, nói nôm na, đó là hội nghị biên tập kinh điển, nhằm mục đích xác minh giáo pháp của Phật. Đương thời, đương nhiên cũng đã có chữ viết, nhưng chữ viết chỉ được sử dụng trong thực tế thương mại mậu dịch, hay công văn thư tịch của quốc gia, v.v…, thánh điển tôn giáo hay triết học, v.v… là không được ghi chép, mà tất cả đều được bảo trì bằng hình thức ghi nhớ, hình thức truyền thừa bằng khẩu tụng là tập quán của Ấn Độ từ xưa. Phật giáo cũng theo phong tục này, thời đó, cả kinh và luật đều đã được truyền thừa bằng cách ghi nhớ khẩu tụng như vậy.
Việc ghi chép kinh điển: Việc kinh điển Phật giáo được ghi chép, theo truyền thừa của hệ Pāli thì, vào thời đại của vua Vaṭṭagāmaṇi Ceylon khoảng 1 thế kỷ trước Tây lịch, thánh điển Pāli lần đầu tiên được khắc bằng văn tự Ceylon. Trong Phật giáo phương Bắc thì theo Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ, vào khoảng thế kỳ thứ II, Đại Tỳ-bà-sa luận đã được khắc vào bản đồng, nên có thể biết, khoảng thời kỳ này đã có tập quán ghi chép kinh điển trong Phật giáo.
(2). Thành lập kinh A-hàm
Khi “Pháp và Luật” được tập hợp thành trong lần kết tập thứ nhất rồi thì, pháp dần dần đã được chỉnh lý thành kinh điển. Có lẽ ban đầu pháp đã không được phân loại tổ chức thành hình thức như năm Nikāya bốn A-hàm, trong thời gian truyền thừa thì dần dần mới được chỉnh lý phân loại mà thành, đó là 4 chủng loại hay 5 chủng loại kinh A-hàm (Āgama). Sự phân loại này đã được xác định từ khi nào thì không rõ, nhưng có lẽ là trước khi Phật giáo bị phân chia thành bộ phái, tức là đã tạm thời được phân loại trong thời đại Phật giáo nguyên thuỷ. Bởi vì các bộ phái đều có truyền trì 4 loại hay 5 loại kinh A-hàm với tư cách là kinh điển nguyên thuỷ.
Về kinh A-hàm hiện còn: có 5 Bộ của Phật giáo Pāli (Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ, Tiểu Bộ) và 4 A-hàm (Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm, Tăng Nhất A-hàm) trong Hán dịch, nhưng 4 A-hàm của Hán dịch không phải là kinh điển truyền thừa của 1 bộ phái, mà là của nhiều bộ phái khác nhau ngẫu nhiên hợp thành. Nguyên lai là những kinh điển mà 18 bộ phái hay 20 bộ phái truyền trì, gồm 4 loại hay 5 loại A-hàm hay Bộ (nikāya) và xem đó là kinh tạng. Tạng Pāli gọi A-hàm là Bộ (nikāya), nhưng trong Phật giáo Pāli cũng có danh xưng A-hàm. A-hàm (āgama) có ý nghĩa là “truyền thừa”, chỉ cho kinh điển đã được truyền thừa lại từ thời kỳ của đức Thích Tôn. Bộ (nikāya) có nghĩa là kinh điển đã được phân loại theo từng bộ loại.
Năm bộ của Pāli và bốn A-hàm của Hán dịch hiện còn là như sau:
|
|
5 bộ Pāli |
Hán dịch 4 A-hàm |
|
1 |
Trường bộ (Dīghanikāya), 34 kinh |
Trường A-hàm (Dīghāgama), 30 kinhkinh |
|
2 |
Trung bộ (majjimanikāya), 152 kinh |
Trung A-hàm (Madhyamāgama), 222 kinh |
|
3 |
Tương Ưng bộ (Samyuttanikāya), 56 tương ưng |
Tạp A-hàm (Samyuktāgama), và biệt dịch Tạp A-hàm |
|
4 |
Tăng Chi bộ (Anguttaranikāya), 1 pháp đến 11 pháp |
Tăng nhất A-hàm (Ekottarāgama), 1 pháp đến 11 pháp |
|
5 |
Khuddaka-nikāya |
(các dịch phẩm đơn hành) Tạp tạng (Kṣudrakāgama) |
Trong đây, kinh A-hàm thứ 5 của Pāli là Tiểu Bộ (Khuddaka-nikāya) gồm có 15 nhóm, đó là: 1) Khuddakapāṭha (Tiểu tụng), 2) Dhammapada (Pháp cú), 3) Udāna (Cảm hứng ngữ, Phật tự thuyết), 4) Itivuttaka (Phật thuyết như vậy), 5) Suttanipāta (Kinh tập), 6) Vimānavatthu (Chuyện Thiên cung), 7) Petavatthu (Chuyện Ngạ quỷ), 8) Theragāthā (Trưởng lão kệ), 9) Therīgāthā (Trưởng lão Ni kệ), 10) Jātaka (Bổn sanh), 11) Niddesa (Nghĩa thích), 12) Paṭisambhidāmagga (Vô ngại giải đạo), 13) Apadāna (Thí dụ giáo huấn), 14) Buddhavamsa (Phật sử), 15) Cariyāpiṭaka (Hạnh tạng).
Khác với 4 bộ đầu tương ứng với A-hàm Hán dịch, bộ thứ 5 là Tiểu Bộ này có vẻ đã có sự khác biệt lớn trong truyền thừa của các bộ phái. Tức đã có bộ phái không xem Tiểu Bộ (Khuddakanikāya) là kinh A-hàm thứ năm như Pāli, không bao gồm trong kinh A-hàm mà xem nó là Tạp Tạng (Kṣudraka-piṭaka) độc lập bên ngoài kinh tạng. Dù gì thì nhóm kinh điển loại này cũng ít nhiều được tìm thấy trong Hán dịch. Vì nội dung của 15 nhóm kinh của Tiểu Bộ Pāli khá phức tạp, nên biết rằng, việc thành lập của kinh điển ấy có kinh rất cổ và cũng có kinh khá muộn, chúng được tồn tại xen lẫn ở đây. Trong cái gọi là Kinh Tập (Suttanipāta), có cái còn cổ hơn cả 4 A-hàm, đã được đọc tụng từ thời Phật tại thế, và được trích dẫn trong kinh A-hàm. Ngoài ra, kinh Pháp Cú, Phật tự thuyết, Như thị ngữ, Trưởng lão kệ, Trưởng lão Ni kệ, Bổn sanh, v.v… cũng là kinh cổ không thua kém gì các kinh A-hàm, là những kinh điển quan trọng làm tài liệu để nghiên cứu Phật giáo Nguyên thuỷ.
(3). Thành lập luật tạng
Luật được tập thành trong lần kết tập thứ nhất, sau đó cũng được chỉnh lý cấu trúc dần, và được kết tập thành luật tạng của các bộ phái được truyền đến ngày nay. Cấu trúc của luật tạng phân thành hai hạng mục lớn là chỉ trì giới và tác trì giới.
Chỉ trì giới là chỉ cho các điều giới ngăn cấm, nếu làm thì phạm tội, không làm thì không phạm. Điều giới gồm tỳ-kheo có 250 giới, tỳ-kheo-ni có 348 giới (theo luật Tứ Phần). Con số điều văn của giới này tuỳ theo bộ phái mà có ít nhiều khác nhau, nhưng cấu trúc chung về chúng thì đại khái tương đồng giữa các phái. Trong luật tạng cũng có chú thích cho điều văn, gọi đó là Kinh phân biệt (Suttavibhaṅga).
Tác trì giới là những quy định sinh hoạt trong đoàn thể tăng già, như việc xuất gia thọ giới, bố-tát, an cư, tự tứ, ngoài ra còn có tập hợp những quy định về y, thực, trụ, v.v…, và chúng còn được chú giải thuyết minh. Gọi đó là Kiền-độ bộ (khandhaka). Ngoài hai phần trên thì trong luật tạng còn có phần Phụ Tuỳ (Parivāra) là được ghi thêm bởi hậu thế.
Luật tạng là thứ không thể thiếu nơi có giáo đoàn xuất gia, được hành trì và truyền trì khá đầy đủ cho đến hiện tại.
Luật tạng của các bộ phái hiện còn có luật Pāli, 5 loại Hán dịch, 1 loại Tạng dịch, tổng cộng có 7 loại.
|
1 |
Luật Pāli |
Truyền thừa của Nam phương Thượng Toạ bộ |
|
2 |
Luật Ngũ Phần |
Truyền thừa của Hoá Địa bộ |
|
3 |
Luật Tứ Phần |
Truyền thừa của Pháp Tạng bộ |
|
4 |
Luật Ma-ha Tăng-kỳ |
Truyền thừa của Đại Chúng bộ |
|
5 |
Luật Thập tụng |
Truyền thừa của Thuyết nhất thiết hữu bộ |
|
6 |
Luật Căn bản hữu bộ |
Truyền thừa của Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ |
|
7 |
Luật tạng Tibet dịch |
Truyền thừa của Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ |
Trên đây, 6 và 7 là giống nhau, nhưng 6 là bộ luật còn thiếu. 7 là bộ luật đầy đủ. Một phần Phạn văn của luật này cũng đã được phát hiện ở Gilgit (vùng phía bắc Kashmir) và đã được xuất bản.
Điều giới và sự phân loại: Các loại điều văn và con số điều văn trong các luật được liệt kê như bảng sau.
|
|
Ba-la-di pháp |
Tăng tàn pháp |
Bất định pháp |
Xả đọa pháp |
Ba-dật-đề pháp |
Hối quá pháp |
Chúng học pháp |
Diệt tránh pháp |
Tổng cộng |
|
Pāli |
4 (8) |
13 (17) |
2 (0) |
30 (30) |
92 (166) |
4 (8) |
75 (75) |
7 (7) |
227 (311) |
|
Tăng kỳ |
4 (8) |
13 (19) |
2 (0) |
30 (30) |
92 (142) |
4 (8) |
66 (77) |
7 (7) |
218 (290) |
|
Ngũ phần |
4 (8) |
13 (17) |
2 (0) |
30 (30) |
91 (207) |
4 (8) |
100 (100) |
7 (7) |
251 (377) |
|
Tứ Phần |
4 (8) |
13 (17) |
2 (0) |
30 (30) |
90 (178) |
4 (8) |
100 (100) |
7 (7) |
250 (348) |
|
Thập tụng giới bổn |
4 (8) |
13 (17) |
2 (0) |
30 (30) |
90 (178) |
4 (8) |
113 (106) |
7 (7) |
263 (354) |
|
Căn bản hữu bộ |
4 (8) |
13 (20) |
2 (0) |
30 (33) |
90 (180) |
4 (11) |
99 (99) |
7 (7) |
249 (358) |
Trên đây là con số điều giới trong luật của các bộ phái. Phần bên ngoài ngoặc là giới của tỳ-kheo, phần trong ngoặc là giới của tỳ-kheo-ni. Giới của tỳ-kheo được phân thành tám nhóm: Ba-la-di pháp, Tăng tàn pháp, Bất định pháp, Xả đọa pháp, Ba-dật-đề pháp, Hối quá pháp, Chúng học pháp, Diệt tránh pháp. Giới của tỳ-kheo-ni được phân làm bảy nhóm, ngoại trừ Bất định pháp. Tám loại điều giới trên là sự phân loại dựa vào độ khinh trọng của tội khi phạm vào những giới ấy. Giải thích vắn tắt về tám loại ấy thì như sau.
Ba-la-di pháp (pārājika 波羅夷, đoạn đầu, tha thắng, cực trọng) là tội cực trọng, trường hợp tỳ-kheo thì có 4 thứ là dâm, đạo, sát, vọng, nếu phạm vào những điều giới này thì bị đuổi ra khỏi giáo đoàn. Tương đương với tội tử hình ở thế gian.
Tăng tàn pháp (僧残 saṅghāvaśeṣā, saṅghādisesā, tăng-già-bà-thi-sa, tăng-già-đề-thi-sa) saṅgha-ava-śeṣa (chỉ còn lại chút ít tư cách ở trong tăng): là tội nặng kế sau tội trên, nếu phạm tội này thì trong một thời gian nhất định sẽ bị tước quyền thành viên tăng và bị biệt trụ. Tương đương với tội bị trưng dịch, giam cầm ở thế gian.
Bất định pháp (aniyata 不定) tội chỉ có ở tỳ-kheo, liên quan việc nam nữ, đang nghi ngờ chưa thể quyết định vào cụ thể một tội gì đó.
Xả đọa (naiḥsargikā pāyattikāḥ, nissaggiyā pācittiyā, Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề pháp 尼薩耆波逸提法, Ni-tát-kỳ ba-dật-để-ca pháp 尼薩祇波逸底迦法), nis- (sarga:√sṛj) -ika: Tội sẽ được tha thứ bởi việc sám hối khi xả bỏ vật đã lấy một cách phi pháp trước tăng-già. Tương đương với tội thu hồi, phạt tiền đền bù ở thế gian.
Đơn đoạ / Ba-dật-đề pháp, (pāyattika, pācittika) prāyaś-cittika: Là tội nhẹ của việc làm không thích hợp, là tội mà chỉ sám hối là có thể được miễn thứ. Tương đương với tội bị trách mắng ở thế gian.
Hối quá (pratideśanīya, pāṭidesaniyā, Ba-la-đề-đề-xá-ni, đối thuyết), là bất pháp liên quan việc ăn uống, chỉ cần cáo bạch là được giải tội.
Chúng học (śaikṣā, sekhiyā), là những hành nghi phép tắc trong sinh hoạt thường ngày, chỉ cần tự mình phản tỉnh ăn năn là được.
Diệt tránh pháp (adhikaraṇaśamathā dharmāḥ, adhikaraṇasamathā dhammā, chỉ tránh), đây không phải là tội, mà là phương pháp giải quyết để chấm dứt tranh luận trong giáo đoàn. Tương đương với pháp hình sự tố tụng trong luật pháp thế gian.
(4). Thành lập luận tạng
Như trên, từ sau cuộc kết tập đầu tiên, kinh và luật đã được phân loại chỉnh lý, giải thích và định nghĩa những ngữ cú khó hiểu, tóm tắt và hệ thống hoá giáo lý và các phương pháp tu hành lại, giải thích, hệ thống hoá các điều giới trong luật và những quy định tác pháp. Những nghiên cứu đối với kinh (pháp) và luật ấy gọi là Đối pháp (abhidharma, abhidhamma, A-tỳ-đạt-ma) và Đối luật (abhiviṇaya, a-tỳ-tỳ-nại-da). Trường hợp của luật thì những nghiên cứu giải thích được đưa vào sau luật tạng, xem là phụ lục của luật tạng (phần phụ tuỳ), còn trường hợp của kinh thì, do vì cách trình bày của A-tỳ-đạt-ma, và hình thức biểu hiện khác với kinh, nên không thể thêm vào trong kinh A-hàm. Tuy nhiên, hình thức chú thích thuộc giai đoạn ban sơ của nó cũng có thể tìm thấy trong kinh A-hàm với tư cách là kinh điển.
Khi việc nghiên cứu A-tỳ-đạt-ma dần phát triển, do vì hình thức văn học khác nhiều, không thể đưa vào trong kinh điển được nữa, nên độc lập mục này ra thành nhóm điển tịch riêng, gọi là A-tỳ-đạt-ma (Abhidharma, Abhidhamma, luận thư), và tập hợp những văn bản như vậy lại gọi là luận tạng (Abhidharma-piṭaka, Abhidhamma-piṭaka). Đây là sự thành lập luận tạng. Có lẽ đó là khoảng từ thời kỳ Phật giáo bộ phái, sau thời kỳ Phật giáo nguyên thuỷ. Đương nhiên, thời kỳ này thì kinh tạng và luật tạng đã được thành lập rồi. Như thế, về nguyên tắc, các bộ phái đã bảo trì và truyền thừa tam tạng kinh luật luận.
Trong tam tạng, kinh tạng và luật tạng thì có nhiều bộ phận giống nhau giữa các bộ phái, nhưng luận tạng thì cho dù có đôi chút giống nhau nhưng có rất nhiều mặt khác nhau. Đó là do vì kinh tạng và luật tạng thì từ uyên nguyên của nó, là do đức Thích Tôn thuyết pháp và chế định, trải qua cuộc kết tập đầu tiên, giáo học chung này được truyền trì suốt trong thời kỳ Phật giáo nguyên thuỷ, đối lại, luận tạng là nhóm điển tịch mới được nghiên cứu từ thời Phật giáo nguyên thuỷ trở đi, nhưng để thành lập với tư cách là luận tạng thì phải đến thời bộ phái Phật giáo, mới được hình thành nên nơi từng bộ phái. Trong thực tế, điểm đặc trưng của bộ phái có thể tìm thấy được trong luận tạng của họ.
Luận tạng của các bộ phái hiện còn tối cổ gồm có 7 luận của Pāli, 7 luận của Thuyết nhất thiết hữu bộ, Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm được cho là của Pháp Tạng bộ. Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm là điển tịch tóm tắt toàn thể 7 luận của hệ Pāli và của Thuyết nhất thiết hữu bộ. Những luận trên đây được phát triển và thành lập khoảng giai đoạn 2-3 trăm năm trước tây lịch.
7 luận của hệ Pāli và của Thuyết nhất thiết hữu bộ không đối ứng với nhau, nhưng chí ít thì cùng bao hàm yếu tố phát triển tuần tự theo thời kỳ. Đại khái là như sau.
|
7 Luận Pāli |
7 luận của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ |
||
|
1 |
Pháp Tập, Dhammasaṅgaṇī |
1 |
A-tỳ-đạt-ma Tập dị môn túc luận阿毘達磨集異門足論(Abhidharma-saṅgīti-paryāya-pāda-śāstra) |
|
2 |
Phân Biệt, Vibhaṅga |
2 |
A-tỳ-đạt-ma Pháp uẩn túc luận阿毘達磨法蘊足論(Abhidharma-dharmaskandha-pāda-śāstra) |
|
3 |
Nhân thi thiết, Puggalapaññatti |
3 |
Thi Thiết luận施設足論(Prajñapti-pāda-śāstra) |
|
4 |
Luận sự, Kathāvatthu |
4 |
A-tỳ-đạt-ma Thức thân túc luận阿毘達磨識身足論(Abhidharma-jñānakāya-pāda-śāstra) |
|
5 |
Giới thuyết, Dhātukathā |
5 |
A-tỳ-đạt-ma Giới thân túc luận阿毘達磨界身足論(Abhidharma-dhātukāya-pāda-śāstra) |
|
6 |
Song đối, Yamaka |
6 |
A-tỳ-đạt-ma Phẩm loại túc luận阿毘達磨品類足論(Abhidharma-prakaraṇa-pāda-śāstra) |
|
7 |
Phát thú / Vị trí, Paṭṭhāna |
7 |
A-tỳ-đạt-ma Phát trí luận阿毘達磨発智論 (Abhidharma-jñānaprasthāna-śāstra) |
(5). Về Tam tạng của thời kỳ Phật giáo Đại thừa
Thời kỳ Phật giáo Đại thừa, kinh và luận được mở rộng nhiều, hình thành nhiều học thuyết giáo nghĩa có giá trị trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ (xem chương 1). Tuy nhiên, về luật, tức quy định sinh hoạt của tăng già thì không phát triển như thế. Lý do đương nhiên là, tại Ấn Độ, không tồn tại một giáo đoàn Đại thừa độc lập riêng biệt với Phật giáo bộ phái, cho dù nói là thời kỳ đại thừa, nhưng sinh hoạt tăng đoàn vẫn là theo hệ thống giới luật của Phật giáo truyền thống, không hề thiết lập hệ thống giới luật riêng. Cũng cần nói thêm rằng, khi bồ-tát hành lợi tha được xem là hành hoạt phổ biến của Phật giáo đồ Ấn Độ, đặc biệt là trong Phật giáo Du-già hành, có quy định về việc thọ trì bồ-tát giới đi chăng nữa, thì việc này cũng đều phải thực hiện sau khi đã xác nhận tư cách thành viên Tăng hay Phật giáo đồ truyền thống. Tức bồ-tát giới chỉ là giới gia tăng thêm, chứ không phải là cái có thể thay thế giới luật truyền thống.
2.2.2. Những giáo lý đã tuyên thuyết
Những giáo lý mà các kinh điển trên đây tuyên thuyết là những nội dung căn bản chân thật của giáo pháp trong Phật giáo. Khi nói đến giáo pháp là chỉ cho những điều này.
Cụ thể về những giáo pháp ấy, giáo pháp đặc trưng thuộc thời Phật giáo nguyên thuỷ là năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, tam pháp ấn (tứ pháp ấn), mười hai duyên khởi, tứ đế, tam học, ba mươi bảy bồ-đề phần, tứ hướng tứ quả, v.v… Giáo pháp đặc trưng thuộc thời Phật giáo Đại thừa gồm hệ thống giai vị tu hành mười địa, ba-la-mật-đa, Phật tánh, Như lai tạng, tám thức, tam tánh, nhị đế, nhị vô ngã, bồ-đề tâm, tam mật, v.v… Trên đây là trạng thái Phật giáo Ấn Độ, sau đó Phật giáo được truyền đến các nước, và rồi nhiều giáo nghĩa phát triển cũng được hình thành thêm.
Định nghĩa về giáo pháp: Trong kinh điển nguyên thuỷ khi giải thích cho pháp, có câu định nghĩa cố định thường thấy như sau.
“Pháp (1) được đức Thế Tôn khéo nói, (2) cần tự mình thấy / thiết thực hiện tại, (3) mang tính chất vô thời, (4) đến để mà thấy, (5) đưa đến [chỗ lý tưởng], (6) là pháp mà người trí tự mình sẽ giác chứng”.
Bốn tính chất đặc biệt của giáo pháp: Những tính chất trên đây được xem là đặc trưng của giáo pháp. Và riêng trong chú thích thư Pāli (Pháp Tập Luận Chú) còn nêu ra bốn tính chất để giải thích định nghĩa cho pháp. Đó là: (1) giáo pháp (pariyatti): tính tôn giáo - thánh, (2) nhân (hetu): tính hợp lý - chân, (3) đức (guṇa): tính luân lý - thiện, (4) vô ngã tánh (nissatta-nijjīvatā).
2.3. Tăng
2.3.1. Khởi nguyên của từ Tăng saṅgha
Tăng (saṅgha) cũng được dịch là Tăng-già, chúng, có ý nghĩa là đoàn thể, cũng được gọi là hoà hợp chúng. Từ ngữ này đã được sử dụng ở xã hội Ấn Độ từ trước thời có Phật giáo, với ý nghĩa là một tổ chức, một nhóm người làm nghề buôn bán, hay đoàn thể vương tộc thống trị quốc gia, và từ này cũng được dùng với ý nghĩa là đoàn thể hay tổ chức tôn giáo đương thời. Trong Phật giáo cũng đã sử dụng danh xưng này. Đoàn thể của Phật giáo là tăng-già thì bao gồm phạm vi thế nào? theo truyền thống thì, như có những từ tỳ-kheo tăng-già (chúng tỳ-kheo), tỳ-kheo-ni tăng-già (chúng tỳ-kheo-ni), đó là chỉ cho đoàn thể những người xuất gia nam, nữ, đã thọ giới tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni.
2.3.2. Bốn chúng và bảy chúng
Vốn dĩ, đoàn thể của Phật giáo là gồm có hai chúng thuộc tại gia là ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, và năm chúng thuộc xuất gia là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, sa-di, sa-di-ni, và chánh học nữ. Tổng hợp cả hai chúng tại gia và xuất gia thế này lại thì gọi là bảy chúng, nếu chỉ đại biểu giới xuất gia là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, thì cùng với chúng ưu-bà-tắc, ưu-bà-di gọi là bốn chúng.
Ưu-bà-tắc (upāsaka, tín nam, nam cư sĩ) là vị tại gia tín nam. Sống đời sống có gia đình, quy y Phật Pháp Tăng và nguyện trọn đời thọ lãnh năm giới của người tại gia là (1) không sát sanh, (2) không trộm cắp, (3) không tà dâm, (4) không vọng ngữ, (5) không sử dụng chất kích thích.
Ưu-bà-di (upāsikā, tín nữ, nữ cư sĩ): là vị tại gia tín nữ. Cũng giống với Ưu-bà-tắc, vị ấy sống đời sống có gia đình, quy y Phật Pháp Tăng và nguyện trọn đời thọ lãnh năm giới của người tại gia.
Tỳ-kheo (bhikṣu, bhikkhu, ) là người nam xuất gia, đã đủ hai mươi tuổi, và đã thọ giới cụ túc (250 giới) của tỳ-kheo.
Tỳ-kheo-ni (bhikṣuṇī, bhikkhunī, ) là người nữ xuất gia, đã đủ hai mươi tuổi, và đã thọ giới cụ túc (348 giới) của tỳ-kheo-ni.
Sa-di (śrāmaṇera, sāmaṇera, cần sách): nghĩa là người hầu cận của sa-môn (śrāmaṇa), chỉ cho người nam xuất gia nhưng chưa thọ giới cụ túc của tỳ-kheo. Do vì việc thọ giới cụ túc là từ hai mươi tuổi trở lên, nên những thiếu niên xuất gia trước tuổi hai mươi là sa-di. Tuy nhiên trong quá trình truyền thừa, trong Phật giáo Bắc truyền hệ Hán tự đã quy định lại việc thọ giới, tất cả nam nhân dù đã hai mươi xuất gia trong truyền thống này đều phải thọ giới Sa-di trước khi thọ giới tỳ-kheo. Có lẽ đó là do cần nhiều thời gian hơn để học hạnh xuất gia trước khi gia nhập vào làm thành viên chính thức của tăng đoàn. Sa-di phải giữ mười giới như sau.
(1) không sát sanh, (2) không trộm cắp, (3) không dâm dục, (4) không vọng ngữ, (5) không sử dụng chất kích thích, (6) không ăn phi thời, (7) không dùng đồ trang sức, (8) không xem nghe múa ca, (9) không dùng giường cao ghế đẹp, (10) không thọ nhận tiền vàng.
Sa-di-ni (śrāmaṇerī, sāmaṇerī, cần sách nữ): chỉ cho người nữ xuất gia nhưng chưa thọ giới cụ túc của tỳ-kheo-ni. Cũng giống như sa-di, người chưa đủ hai mươi tuổi là sa-di-ni. Và cần giữ mười giới như trên.
Chánh học nữ (śikṣamānā, sikkhamānā, thức-xoa-ma-na): cũng chỉ cho người nữ đã xuất gia nhưng chưa thọ giới tỳ-kheo-ni. Vốn dĩ chỉ cho trường hợp người nữ đã kết hôn mà xuất gia. Vì người đã kết hôn thì có khả năng đang mang thai, nên cần hai năm làm chánh học nữ. Tuy nhiên trong quá trình truyền thừa, có lẽ để có tư cách của một thành viên tăng tỳ-kheo-ni cần nhiều thời gian tu học hơn, nên Chánh học nữ / Thức-xoa-ma-na được xếp vào giai đoạn giới phải thọ sau khi đã thọ giới sa-di-ni và trước khi nhận lãnh giới tỳ-kheo-ni hai năm.
Giới pháp cho chánh học nữ có sáu pháp: (1) không dâm, (2) không trộm cắp, (3) không sát sanh, (4) không vọng ngữ, (5) không sử dụng chất kích thích, (6) không ăn phi thời.
Đây là 6 giới đầu tiên trong mười giới của sa-di-ni.
2.3.3. Phạm vi của tăng-già
Theo truyền thống từ thời Phật giáo nguyên thuỷ cho đến thời Phật giáo bộ phái thì tăng-già là chỉ cho đoàn thể xuất gia tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni trong 7 chúng hay 4 chúng của toàn thể tăng tín đồ Phật giáo. Và đặc biệt Tỳ-kheo tăng-già là chủ thể, tỳ-kheo-ni tăng-già là bộ phận tuỳ thuộc của tỳ-kheo tăng-già. Do đó, cho dù sa-di, sa-di-ni, chánh học nữ là giới xuất gia, và ưu-bà-tắc, ưu-bà-di thuộc giới tại gia đều không được xếp vào trong hàng ngũ tăng-già.
(Gọi tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di là tứ chúng, nhưng chúng trong trường hợp này là pariṣad, parisā, chứ không phải là saṅgha. Từ saṅgha chỉ được sử dụng cho trường hợp tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni).
Trong Phật giáo Nhật Bản cận đại, với ý nghĩa vốn có của từ saṅgha, họ đã hiểu giáo đoàn Phật giáo là bao gồm cả tại gia xuất gia, nhưng dụng ngữ saṅgha trong truyền thống thánh điển Phật giáo, kể cả thánh điển Phật giáo Hán tự, cũng không thể tìm thấy cách dùng này.
Sở dĩ người Nhật sử dụng như vậy, thứ nhất là vì họ hiểu hình thức lý tưởng của tăng-già là không thể tách biệt tại gia xuất gia, nên cần phải thêm tại gia vào trong tăng-già. Thứ hai có lẽ là vì ở Nhật không còn giáo đoàn xuất gia thọ giới thuần tuý nữa mà chỉ còn hình thức, nên không cần phân biệt nữa.
2.3.4. Định nghĩa về tăng-già trong kinh A-hàm
Trong kinh điển Nguyên thuỷ, để giải thích cho Tăng bảo (một trong ba ngôi báu) thì có định nghĩa tiêu biểu được nêu ra như sau.
“Tăng-già đệ tử của Phật có đủ diệu hạnh, có đủ chất trực hạnh, có đủ như lý hạnh, có đủ chánh hạnh. Tức đó là tứ song bát bối. Tăng-già đệ tử này xứng đáng được thế gian cúng dường, xứng đáng được cung kính, xứng đáng được bố thí, xứng đáng được kính lễ, là phước điền vô thượng”.
Định nghĩa này có cả trong kinh A-hàm thuộc Pāli và cả trong kinh A-hàm của Hán dịch. Tuy nhiên, trong Hán dịch A-hàm thì còn có thêm rằng Tăng-già có đủ các đức về giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.
Trong định nghĩa trên có từ “tứ song bát bối” là chỉ cho chư thánh giả của thanh văn (xem thêm ở mục thanh văn thừa bồ-tát thừa” của chương 1, và mục “giai vị tu hành” của chương 7).
Với định nghĩa trên đây thì, Tăng-già có ý nghĩa chỉ cho đoàn thể thánh giả đệ tử Phật chứ không bao gồm hàng phàm phu chưa chứng ngộ. Và trong định nghĩa này cũng không hạn định rằng tăng-già chỉ là giới xuất gia, nên tín giả tại gia cũng có thể được bao hàm trong đó. Nhưng trong thực tế thì dù tại gia tín giả có là thánh giả đi chăng nữa, nhưng không sinh hoạt đoàn thể với tư cách là tăng đoàn, nên có lẽ chỉ chỉ cho ý nghĩa thánh giả xuất gia. Từ định nghĩa trên đây cho thấy, Tăng bảo, đối tượng để quy y tín phụng của tín chúng, nên phải là thánh giả mới có tư cách ứng cúng như vậy chăng?.
Tuy nhiên, tăng-già theo như được nói trong luật tạng, và được truyền thừa theo truyền thống, thì đó là đoàn thể người xuất gia đã thọ giới cụ túc. Số người trong đoàn thể này có các chủng loại là tăng-già 4 vị, tăng-già 5 vị, tăng-già 10 vị, tăng-già 20 vị, tăng-già hơn 20 vị. Từ 3 người trở xuống thì tuyệt đối không thể gọi là tăng-già.
Có lẽ, nếu nói theo lý tưởng thì thành viên tăng đoàn được mong là các thánh giả, nhưng trong thực tế việc người thọ giới cụ túc là thánh giả thì ngay cả thời đức Phật tại thế cũng không thể có nhiều, nên hiểu định nghĩa trên là kỳ vọng lý tưởng về tăng. Lý do vì sao thành viên tăng đoàn được kỳ vọng là thánh giả thì có lẽ sẽ rõ hơn khi xét thêm ở mục sau.
2.3.5. Chức năng của tăng-già
Trong định nghĩa trên có đề cập việc tăng-già là phước điền có giá trị để thế gian tôn trọng cúng dường. Điều này là vì tăng-già dẫn dắt con người thế gian trong lãnh vực tín ngưỡng và tu hành, với mục đích cứu giúp dân chúng. Tức tăng-già là đoàn thể có chức năng trách nhiệm thay Phật dẫn dắt giúp đỡ dân chúng. Đại khái có thể vắn tắt thành 3 ý nghĩa chức năng như sau:
(1) Tăng già là chuyên môn gia của Phật giáo
(2) Tăng già là người dẫn dắt tín ngưỡng
(3) Tăng già là hàng ngũ kế tục chánh pháp
(1) Tăng-già là chuyên môn gia của Phật giáo: có nghĩa là tăng-già trước hết là có tín ngưỡng đúng đắn về Phật giáo, giải thích đúng đắn về giáo học Phật giáo - tức về nhân sinh quan thế giới quan của Phật giáo, là bậc có khả năng đạt được sự chứng ngộ nhờ tu hành đúng đắn. Do là nhà chuyên môn, nên có thể kỳ vọng họ có đủ cả lý luận và thực tiễn tu hành. Trong định nghĩa về tăng-già của Phật giáo nguyên thuỷ cho rằng, tăng-già có đủ diệu hạnh, chất trực hạnh, như lý hạnh, chánh hạnh, tứ song bát bối, là chỉ cho nghĩa này.
(2) Tăng-già là người dẫn dắt tín ngưỡng: cùng với chức năng là chuyên môn gia, tăng-già là những người có thể dẫn dắt dân chúng trong lãnh vực tín ngưỡng, có khả năng giáo hoá để hoá giải khổ đau, họ có phương pháp để làm việc đó, họ có nguyện vọng giáo hoá và chuyên tâm nỗ lực cho việc này. Trong định nghĩa về tăng-già ở trên, tăng-già là phước điền xứng đáng được thế gian cúng dường, cung kính, lễ bái, là ứng với nghĩa này.
(3) Tăng-già là hàng ngũ kế tục chánh pháp: nhiệm vụ quan trọng của tăng-già là làm chánh pháp cửu trụ. Đó là giữ gìn chánh pháp một cách đúng đắn, và truyền trao cho hậu thế liên tục mãi mãi. Do đó, đoàn thể tăng-già tuyệt đối phải được duy trì một cách đúng đắn.
Vốn dĩ sứ mệnh căn bản của tăng-già đã được đức Phật giao phó nổi tiếng qua đoạn kinh sau:
“Này các Tỳ-kheo, ta đã được giải thoát khỏi tất cả triền phược của thiên giới và nhân giới. Này các Tỳ-kheo, các ông cũng được giải thoát khỏi tất cả triền phược của thiên giới và nhân giới. Này các Tỳ-kheo, hãy du hành vì lợi ích cho nhiều người, vì an lạc cho nhiều người, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư thiên và loài người. Hãy đi một mình, chớ có đi hai người một chỗ. Này các Tỳ-kheo, hãy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Hãy tuyên thuyết phạm hạnh thanh tịnh hoàn toàn viên mãn”.
10 điều lợi: Nguồn gợi ý cho ba chức năng tăng-già trên đây là 10 điều lợi được nói trong luật tạng. Giới luật được đức Phật chế định là để tăng-già vận hành đúng đắn, và việc chế định giới luật là có 10 điều lỡi ích, gọi là 10 điều lợi. Đại khái như sau.
(1) vì tính kiện toàn của Tăng-già,
(2) để Tăng-già an trụ,
(3) để áp chế kẻ xấu,
(4) để thiện Tỳ-kheo an trụ,
(5) để phòng hộ các phiền não hiện tại,
(6) để phòng hộ các phiền não tương lai,
(7) để người chưa tin sẽ tin,
(8) để người đã tin tin kiên cố hơn,
(9) để chánh pháp cửu trụ,
(10) để quý trọng giới luật.
Trong đây, sáu điều từ 1-6 là để giữ gìn giáo dưỡng chuyên môn gia Phật giáo, tức chức năng thứ nhất, hai điều 7-8 là điều kiện để dẫn dắt giáo hoá, tức chức năng thứ hai, hai điều 9-10 là để duy trì chánh pháp, tức chức năng thứ ba của tăng già.
4 chủng loại sa-môn: Sau khi đức Phật thọ nhận bữa ăn cuối cùng bởi Thuần-đà (Cunda), Thuần-đà có hỏi đức Phật có mấy loại sa-môn (tỳ-kheo), đức Phật đã trả lời cho Thuần-đà là có 4 loại sa-môn. Đó là,
(1) Thắng đạo sa-môn
(2) Thuyết đạo sa-môn
(3) Hoạt đạo sa-môn
(4) Ô đạo sa-môn
Trong đó, (1) Thắng đạo sa-môn là chỉ cho bậc A-la-hán đã đạt được sự chứng ngộ tối cao, ưu việt trong con đường tu hành, sự tồn tại của vị ấy là soi sáng thế gian, cứu bạt con người trong thế gian.
(2) Thuyết đạo sa-môn là bậc hữu học biết đúng đắn về giáo thuyết luận lý của Phật giáo, là bậc đã có tín ngưỡng kiên cố, là bậc sa-môn xứng hợp với việc thuyết giảng đạo pháp.
(3) Hoạt đạo sa-môn là sa-môn sống sinh hoạt theo đạo, giữ gìn giới luật đã chế định, nỗ lực trong sự nghiệp tu học nhưng chưa đạt được sự chứng ngộ.
(4) Ô đạo sa-môn là những kẻ thân thì xuất gia nhưng không có tín ngưỡng và tri kiến đúng đắn, không giữ gìn giới luật, tu hành giải đãi, là sa-môn làm bẩn đạo.
Chủng loại sa-môn thứ nhất và thứ hai là làm hưng thịnh Phật giáo, chủng loại sa-môn thứ ba thì Phật giáo còn duy trì được, hạng sa-môn thứ tư nếu đông thì Phật giáo suy yếu thậm chí là bị tử diệt. Trong tăng-già nếu để tồn tại hạng thứ tư này thì chức năng của tăng-già sẽ bị rối loạn.