Phật điển đối chiếu tập II: Rāṣṭrapālaparipṛcchā
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP. HCM KHOA PHẬT HỌC SANSKRIT b]a
PHẬT ĐIỂN ĐỐI CHIẾU TẬP II
राष्ट्रपालपरिपृच्छा RĀṢṬRAPĀLAPARIPṚCCHĀ
Thực hiện: MINH TUỆ HUỆ BÌNH NHUẬN ĐẠO HOÀN NHƯ
TP. HCM, 11/2024 |
|
PHẬT ĐIỂN ĐỐI CHIẾU – TẬP II
वनकन्दरेषु सततं निवसन्ति धीरा लाभेन ते सद अनर्थिक भोन्ति नित्यम् ।
प्रतिभानवान्सद भवन्ति असंगबुद्धी गम्भीरधर्मकुशला विगतप्रपञ्चाः ॥
Những bậc trí giả thường trú ở rừng và hang động,
Họ không bao giờ ham muốn lợi dưỡng.
Luôn có biện tài, trí vô thủ trước,
Khéo thông các pháp thâm sâu, hý luận đã được xa lìa.
(Bậc trí trú rừng ở hang động,
Không bao giờ ham cầu lợi dưỡng.
Luôn có biện tài, trí vô trước,
Thông pháp thâm sâu, hý luận diệt).
(Rāṣṭrapālaparipṛcchā, kệ 68)
GIỚI THIỆU KINH RĀṢṬRAPĀLAPARIPṚCCHĀ [1]
1. Văn bản học
Kinh Rāṣṭrapālaparipṛcchā (viết tắt: RP) là một trong những bản kinh Đại thừa sớm nhất và thuộc bộ Bảo tích (Ratnakūṭa) trong Đại tạng kinh chữ Hán và tạng Kangyur của Tây Tạng. Trong số 49 bản kinh độc lập cấu thành bộ Bảo tích này thì RP là một trong số ít kinh còn nguyên điển Ấn Độ còn tồn tại. Bản văn Sanskrit hoàn chỉnh hiện có sớm nhất là từ một thủ bản chữ Nepal có niên đại năm 1661, được Louis Finot biên tập và xuất bản lần đầu tiên tại St. Petersburg bởi Académie Impériale des Sciences, vào năm 1901. Thủ bản Nepal hiện được lưu giữ tại Đại học Cambridge. Hai thủ bản tương tự khác được lưu giữ ở Paris và Tokyo. Ngoài ra, có không dưới bốn bản sao của văn bản nguyên điển Sanskrit có niên đại từ thế kỷ XVIII–XX có mặt trong Nepal-German Manuscript Preservation Project (NGMPP, Dự án bảo tồn thủ bản Nepal-Đức).
Bắt đầu từ thế kỷ III, Kinh RP đã được Hán dịch ít nhất ba lần. Bản dịch sớm nhất còn tồn tại, 『德光太子經』 Đức Quang thái tử kinh T. 0170, được Pháp Hộ (法護Dharmarakṣa, c. 233~310) đặt nền móng và hoàn thành vào năm 270. Vào cuối thế kỷ VI, Kinh RP được Hán dịch lần thứ hai bởi Xà-na-quật-đa (闍那崛多 Jñānagupta) và Đàm-ma-quật-đa (曇摩掘多 Dharmagupta) với tiêu đề 「護國菩薩會第一十八」 “Hội thứ 18: Bồ-tát Hộ Quốc” trong 『大寶積經』Đại bảo tích kinh T. 0310, tr. 457–78. Cuối cùng, bản Hán dịch lần thứ ba được thực hiện bởi Thí Hộ (施護 Dānapāla) vào năm 994 với tên gọi 『護國尊者所問大乘經』 Hộ Quốc tôn giả sở vấn Đại thừa kinh T. 0321.
Vào đầu thế kỉ IX, Kinh RP đã được Tạng dịch bởi dịch sư Tây Tạng Yeshé Dé, với sự hợp tác của các sư học giả Ấn Độ như Jinamitra, Dānaśīla, Munivarman. Trong Derge Kangyur, bản kinh này gồm 30 folio. Bản này đã được biên tập hiệu đính và so sánh duyệt lại với các bản Lhasa, Narthang, Peking, vào năm 1952 bởi Jacob Ensink, trong khi nghiên cứu và phiên dịch bản Sanskrit.
Bản dịch sang ngôn ngữ phương Tây đầu tiên là bản dịch từ Sanskrit sang tiếng Pháp của Louis Finot, vào năm 1901, dựa trên thủ bản chữ Nepal thế kỉ XVII đã được đề cập ở trên. Bản hiệu đính của Finot là cơ sở cho bản Anh dịch của Jacob Ensink vào năm 1952. Bản dịch gần đây nhất là bản Anh dịch của Daniel Boucher vào năm 2008. Boucher cũng đưa ra nghiên cứu sâu rộng về kinh này, dựa vào các bản Sanskrit, Tạng dịch và Hán dịch. Ngoài các bản Kangyur của Peking và Narthang, ông ấy còn sử dụng thủ bản Kangyur của Cung điện Stok và London (Shelkar). Boucher cũng đã tận dụng ba bản Hán dịch, Đức Quang thái tử kinh, Hộ Quốc Bồ-tát hội và Hộ Quốc tôn giả sở vấn Đại thừa kinh.
Đối với bản Anh dịch The Question of Rāṣṭrapāla (1) của Nhóm Dịch thuật Phật học Viên (Vienna Buddhist Translation Studies Group, gồm Konstantin Brockhausen, Jamie Gordon Creek, Susanne Fleischmann, Daniel Gratzer, Georgi Krastev, Katrin Querl, and Julika Weber) dưới sự giám sát của Giáo sư Klaus-Dieter Mathes (Đại học Viên, Áo), thì bản dịch này chủ yếu dựa vào bản Tạng dịch từ đầu thế kỷ IX, được bảo tồn trong ấn bản Derge, có sự so sánh với ấn bản Peking bất cứ khi nào các đoạn văn không rõ ràng. Đối với một số đoạn mà bản Tạng dịch gây hiểu lầm hoặc khó hiểu, trường hợp đó, nhóm này sẽ dựa vào bản Sanskrit và đánh dấu những trường hợp như vậy trong phần chú thích cuối trang. Ngoài ra, nhóm cũng đã tham khảo bản nghiên cứu và dịch của Daniel Boucher.
2. Bối cảnh lịch sử và niên đại của bản kinh
Dựa trên các bản kinh hiện có bằng Sanskrit, Hán văn và Tạng văn, có thể xác định ít nhất có hai lớp văn bản: (1) các đoạn văn có tương ứng trong bản Hán dịch sớm nhất (năm 270) của Trúc Pháp Hộ (竺法護), và (2) những đoạn văn chỉ được tìm thấy trong các bản Hán dịch và Tạng dịch sau đó, cũng như bản Sanskrit hiện có từ cuối thế kỷ XVII. Khoảng 50% nội dung các bản kinh Sanskrit và Tạng văn hiện có bị thiếu trong bản Hán dịch sớm nhất. Các phần sau bao gồm 248 kệ tụng trong tổng số 353 kệ tụng, và chỉ một vài đoạn văn xuôi. Các phần này chủ yếu nằm ở đầu văn bản và tập trung vào sự ca ngợi bao quát về Phật thân dưới dạng kệ tụng, một đặc trưng điển hình cho các kinh văn Đại thừa sau đó. Điều này thách thức giả định phổ biến rằng trong điển tịch Đại thừa, kệ tụng có xu hướng cổ hơn văn xuôi.
Lớp sớm hơn của văn bản phần lớn là văn xuôi. Chỉ có một nhóm bốn pháp về pháp hành của bồ-tát được kèm theo các kệ tụng (cụ thể là các kệ tụng 72–81, liên quan đến những pháp làm thanh tịnh hoàn toàn hạnh bồ-đề của chư bồ-tát. Phần ngắn lên án hành vi của các ác tỳ-kheo là sự xen lẫn đồng đều giữa văn xuôi và kệ tụng. Chuyện tiền thân Puṇyaraśmi có bốn đoạn được viết bằng kệ tụng. Trái lại, tất cả các đoạn được đưa vào sau đó đều được viết bằng kệ tụng (ngoại trừ các phần ngắn ở đầu bản kinh mô tả về hội chúng và các hành vi của Bồ-tát Prāmodyarāja. So sánh bản dịch sớm hơn với các bản dịch trễ hơn, có thể đưa ra những nhận xét sau:
Lớp cổ hơn của văn bản có một số chủ đề được xem là đại diện cho sự phát triển Đại thừa thời kỳ đầu. Nhấn mạnh đến việc ẩn tu nơi trú xứ thanh vắng, nghiêm trì giới luật, nỗ lực thực hành chân chánh, tức là với tâm xả ly. Những pháp này phản ánh sự kháng cự của nhiều vị ủng hộ Đại thừa thời kỳ đầu đối với mối liên hệ ngày càng tăng của tăng viện với thế tục, và quyết tâm mạnh mẽ của họ trong việc tu tập nơi trú xứ thanh vắng để trở về con đường ban đầu mà đức Phật đã dạy và thực hành. Do chủ đề quan trọng nhất của bản kinh này chính là việc ẩn tu ở rừng, cho nên thuật từ Sanskrit araṇya được hiểu theo đúng nghĩa đen là "rừng", mặc dù dịch sang tiếng Tây Tạng là དགོན་པ་ dgon pa, nghĩa là "nơi thanh vắng" hoặc "tự viện". Để phản ứng với những mối nguy hiểm được nhận thức về mối liên hệ thế tục, các ác tỳ-kheo, trong phần đầu của bản kinh, đã bị chỉ trích vì hành vi gian dối, không phù hợp và ý đồ xảo trá, và thậm chí còn bị chỉ trích nhiều hơn trong một số phần được thêm vào sau, trong đó các vị này cũng bị coi là nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn chánh pháp.
Câu chuyện về vương tử Puṇyaraśmi, tức một tiền kiếp bồ-tát của đức Phật, tạo thành phần lớn nhất của bản kinh và là trọng tâm của kinh, thuộc về lớp văn bản cổ hơn, chủ đề trung tâm của phần này là về sự xả ly, bao gồm việc thu thúc các loại lạc giác quan. Bản kinh kết thúc bằng lời tán dương kinh, nhấn mạnh đến tính đúng đắn và lợi lạc của bản kinh, đồng thời nói đến công đức to lớn có được từ việc thọ trì bản kinh, cùng với những hậu quả nghiêm trọng cho những ai bác bỏ.
Phần văn bản được tăng quảng bao gồm một loạt tên các vị bồ-tát hiện diện trong pháp hội và một tập dài các bài kệ tóm tắt hầu hết các truyện Jātaka – kể lại sự tích tập công đức trong năm mươi tiền kiếp bồ-tát của đức Phật, cũng như các bài kệ thuật lại sự cố chấp của các ác tỳ-kheo và vạch trần sự thối đọa của một bộ phận Tăng chúng. Mà trong đó, phần nhiều trong số này dường như đã đáp trả những phản ứng thù địch đối với phong trào Đại thừa vốn chứa đựng những lời khuyên nhủ mạnh mẽ hãy thực hành chánh pháp và đi theo bước chân của đức Phật.
3. Bố cục
Bố cục bản kinh và tham chiếu số trang trong L. Finot (1901) |
|||
Bố cục |
L. Finot (1901) |
||
Chương I. Mở đầu, gồm có 3 phần |
p. 1 – 33 |
||
1. Duyên khởi |
p. 1 – 7 |
||
|
1.1. Kệ Quy kính |
p. 1.1–1.5 |
|
1.2. Mở đầu |
p. 1.6 – 2.14 |
||
1.3. Bồ-tát đại sĩ Pramodyarāja tán dương đức Phật |
p. 2.15 – 4.19 |
||
1.4. Rāṣṭrapāla vào thành Rājagṛha và ca ngợi đức Phật |
p. 4.20 – 7 |
||
2. Pháp hành của Bồ-tát |
p. 8 – 21.8 |
||
|
2.1. Câu hỏi của Rāṣṭrapāla |
p. 8 – 9.14 |
|
|
2.2. Đức Phật trả lời về pháp hành của Bồ-tát gồm có 12 nhóm 4 pháp. |
p. 9.15 – 21.8 |
|
3. Các câu chuyện tiền thân Bồ-tát |
p. 21.9 – p. 33 |
||
|
3.1. Các câu chuyện tiền thân Bồ-tát |
p. 21.9 – 28.16 |
|
|
3.2. Đức Phật nói về sự thoái hóa của Chánh pháp ở đời vị lai. |
p. 18.17 – 33 |
|
Chương II. Chuyện tiền thân Puṇyaraśmi, gồm có 2 phần |
p. 34 – 60 |
||
4. Chuyện tiền thân Puṇyaraśmi |
p. 34 – 59.12 |
||
|
4.1. Các lỗi lầm của Bồ-tát |
p. 34 – 36.14 |
|
4.2. Chuyện tiền thân Puṇyaraśmi |
p. 36.15 – 59.12 |
||
|
4.2.1. Duyên khởi |
p. 36.15 – 39. 7 |
|
4.2.2. Puṇyaraśmi có tâm yểm ly thế gian |
p. 39.8 – 45.16 |
||
4.2.3. Puṇyaraśmi gặp Phật Siddhārthabuddhi |
p. 45.17 – 53 |
||
4.2.4. Vua Arciṣmat theo con trai đến đức Phật Siddhārthabuddhi |
p. 54 – 56.4 |
||
4.2.5. Puṇyaraśmi tu tập trong thời kỳ của đức Phật Siddhārthabuddhi. |
p. 56.5 – 57.18 |
||
4.2.6. Xác định tiền thân và lời cảnh tỉnh |
p. 57.19 – 59.12 |
||
5. Lưu thông |
p. 59.13 – 60 |
4. Nội dung
Bản kinh chia thành hai chương. Chương I chủ yếu xoay quanh việc đức Phật giải đáp các câu hỏi về pháp hành của một vị bồ-tát của Rāṣṭrapāla ở Rājagṛha trên núi Gṛdhrakūṭa. Ở Chương II, đức Phật đưa ra một minh họa về hành vi mẫu mực bằng thuyết giảng về tiền thân Puṇyaraśmi của Ngài. Vào thời của đức Phật Siddhārthabuddhi, con trai của vua Arciṣmat giàu có và có ảnh hưởng, thái tử Puṇyaraśmi, đã từ bỏ cuộc sống xa hoa trong cung điện để cống hiến hết mình cho con đường thực hành Bồ-tát đạo vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
Kinh mở đầu theo kiểu điển hình, lấy bối cảnh đức Phật chủ trì một hội chúng gồm hàng ngàn tỳ-kheo, bồ-tát và chư thiên. Khi Bồ-tát Prāmodyarāja ca ngợi vẻ ngoài lộng lẫy, đáng kính của Ngài, đức Phật tuyên bố mọi hiện tượng đều trống rỗng. Sau đó, câu chuyện chuyển sang Rāṣṭrapāla, sau khi trải qua ba tháng hạ an cư ở Śrāvastī. Cùng với một nhóm tỳ-kheo, Rāṣṭrapāla đi về phía Rājagṛha, nơi đức Phật đang ở. Khi đến, Rāṣṭrapāla đi đến chỗ đức Phật, sau khi dâng lời tán dương Phật, hỏi Phật một loạt câu hỏi liên quan đến những phẩm chất và hành vi của một vị bồ-tát chân chính cũng như con đường đạt đến trí tuệ và giác ngộ vô thượng. Đức Phật, hoan nghênh những thắc mắc của Rāṣṭrapāla, sau đó trả lời dưới hình thức một bài thuyết giảng – xen kẽ giữa văn xuôi và kệ tụng. Trong đó, Ngài trình bày 12 nhóm bốn pháp mà một vị bồ-tát nên thực hành, nêu bật những phẩm đức như xuất gia, khất thực, kiên trì, giới hạnh trong sạch và thoát ly thế tục, đồng thời ca ngợi những lợi ích của việc tu tập tính không.
Để minh họa những phẩm đức như vậy, đức Phật tiếp tục thuật lại những tiền thân Jātaka của mình bằng những bài kệ tóm tắt. Những câu chuyện miêu tả sự từ bỏ của Ngài trong suốt cuộc đời làm vị vua giàu có, nêu bật lòng nhân từ và lòng bi mẫn của Ngài vì lợi ích của người khác, những phẩm chất hoàn toàn không có bất kỳ sự quan tâm nào đến bản thân. Nổi bật trong hầu hết các câu chuyện Jātaka là những hành động hy sinh vô bờ của đức Phật, trong đó Ngài cắt đứt tứ chi hoặc thậm chí hiến dâng toàn bộ cơ thể của mình để mang lại lợi ích cho người khác. Trong nhiều câu chuyện, Bồ-tát là một con vật thể hiện nhiều hành vi cao quý khác nhau, chẳng hạn như giải cứu động vật hoặc con người. Chương I kết thúc bằng sự thọ ký của đức Phật rằng sẽ có những tỳ-kheo, mặc dù biết về những thiện hạnh của đức Phật trong tiền kiếp, nhưng sẽ sa đọa vào đủ loại hành vi tiêu cực, chẳng hạn như vi phạm giới luật, uống rượu, ăn quá nhiều, hành tà hạnh, có vợ con,…
Chương II tập trung vào chuyện tiền thân của đức Phật, khi còn là Bồ-tát Thái tử Puṇyaraśmi trong thời Phật Siddhārthabuddhi. Cha của Puṇyaraśmi là Arciṣmat, vua của một đế chế rộng lớn trên lục địa Jambudvīpa, cư trú tại thành phố Ratnaprabhāsa, thủ đô của vương quốc. Đức Phật kể lại sự ra đời của hoàng tử trẻ đẹp Puṇyaraśmi kèm theo nhiều dấu hiệu kỳ diệu, khi lớn lên nhanh chóng thông thạo mọi nghệ thuật thế gian, nhưng không tham đắm dục lạc. Điều này như là sự phản ánh cuộc đời đức Phật Siddhārtha Gautama.
Một đêm nọ, các thiên tử đánh thức Puṇyaraśmi khỏi giấc ngủ, thúc giục Thái tử tận tâm và suy nghĩ về sự vô thường của vạn vật. Họ nhắc nhở Ngài về sự ngắn ngủi và chóng tàn của kiếp người, khuyến khích Ngài thực hành Bồ-tát pháp – bằng cách sống viễn ly và từ bỏ lối sống xa hoa. Thái tử làm theo lời khuyên và giống như một người xuất gia đúng nghĩa, tránh xa mọi hoạt động dục lạc mà anh ấy có được với tư cách là một thái tử.
Vua cha Arciṣmat đã xây dựng một đại thành tên là Ratipradhāna, được trang trí đẹp mắt bằng hoa và vàng, và những loài chim kỳ lạ bay khắp nơi, hót du dương. Puṇyaraśmi được tặng bốn mươi triệu thiếu nữ cùng với nhiều thứ khác dù tất cả họ đều bị Thái tử từ chối một cách cao thượng. Vua Arciṣmat, thắc mắc tại sao con trai mình lại từ chối tất cả những thứ này, liền đến gần để hỏi tại sao; và khuyến khích Thái tử tận hưởng niềm vui với các thiếu nữ khi vẫn đang ở độ tuổi tươi trẻ. Tuy nhiên, Puṇyaraśmi trả lời rằng do đã có những mục tiêu khác trong đầu, mục tiêu quan trọng nhất là giải thoát khỏi luân hồi. Biết được bản chất giả tạm của những dục lạc như vậy, sự bất tịnh của thân người và bản chất không thể thỏa mãn của dục vọng, Thái tử không còn cảm thấy bị thu hút bởi những thứ như vậy nữa. Thay vào đó, Thái tử tuyên bố mong muốn trở thành một vị Phật vì lợi ích của tất cả chúng sinh, cam kết từ nay sẽ theo bước chân của các vị bồ-tát, tu tập trong rừng.
Vào một đêm nọ, Puṇyaraśmi nghe thấy các thiên tử ca ngợi Tam Bảo trên bầu trời phía trên cung điện của ông. Leo lên mái nhà, Ngài hỏi họ về lời khen ngợi của họ, sau đó họ giới thiệu đức Phật Siddhārthabuddhi. Ngày hôm sau, vua Arciṣmat thấy các thiếu nữ ở cung điện của Puṇyaraśmi đang khóc vì không tìm thấy Thái tử ở đâu cả. Tìm kiếm vô ích, các vị thiên thần hộ thành thông báo cho Arciṣmat rằng Puṇyaraśmi đã rời đi để theo đức Phật Siddhārthabuddhi. Arciṣmat tìm thấy, đi đến và nghe đức Phật Siddhārthabuddhi thuyết pháp. Sau khi thỉnh đức Phật ấy thọ trai tại Ratipradhāna vào ngày hôm sau, Puṇyaraśmi và Arciṣmat đã biến toàn bộ thành phố, được tô điểm bằng tất cả sự giàu có của nó thành một vật phẩm cúng dường đến đức Phật Siddhārthabuddhi.
Một thời gian sau khi Phật Siddhārthabuddhi bát-niết-bàn, Puṇyaraśmi, gia đình của nhà vua và tất cả cư dân trong nước cuối cùng đã xuất gia và xây dựng tám trăm bốn mươi triệu bảo tháp xá lợi của đức Phật Siddhārthabuddhi. Kinh kết thúc với việc đức Phật Śākyamuni xác chứng với Rāṣṭrapāla rằng vua Arciṣmat trên thực tế là một hóa thân của đức Phật Amitāyus, còn Ngài chính là Thái tử Puṇyaraśmi. Cuối cùng, Ngài thúc giục Rāṣṭrapāla noi gương Puṇyaraśmi nếu muốn đạt đến giác ngộ. Trong kết luận, đức Phật nhắc lại rằng sẽ luôn có những ác hành giả với đủ loại hành vi tiêu cực, lạc khỏi con đường giáo pháp chân chính. Cuối cùng Ngài bảo đảm với Rāṣṭrapāla rằng những ai thực hành theo những gì đã được giải thích trong kinh này sẽ không gặp khó khăn gì trong việc đạt được giác ngộ.
5. Tài liệu tham khảo
Để tìm hiểu thêm về bản kinh, xin tham khảo: https://bibliography.openphilology.eu/bibliography/sutra/18/
5.1. Tài liệu sơ cấp
L. Finot. 1901. Rāṣṭrapālaparipṛcchā. Bibliotheca Buddhica II. St. Pétersbourg: Imperial Academy. Reprinted with an appendix of emendations: Indo-Iranian Reprints II. The Hague: Mouton and Co., 1957; and other re-prints of the Bibliotheca Buddhica series.
P. L. Vaidya basically reprinted Finot’s text in Mahāyānasūtra-Saṃgraha I, 120–164. Buddhist Sanskrit Texts 17. Darbhanga: Mithilāvidyāpīṭhapradhānena Prakāśitah, 1961.
Rāṣṭrapālaparipṛcchā (MS Add.1586), Cambridge University Library, truy cập [ngày 16/06/2024]: https://cudl.lib.cam.ac.uk/view/MS-ADD-01586/1
Taishō, vol. III, no. 0170:『德光太子經』, 1 quyển.
Taishō, vol. XI, no. 0310, 457b5–472b1: 「護國菩薩會」, 『大寶積經』 quyển 80-81.
Taishō, vol. XII, no. 0321:『佛說護國尊者所問大乘經』, 4 quyển.
Taishō, vol. XLIX, no. 2034: 歷代三寶紀, quyển 12.
yul ’khor skyong gis zhus pa (Rāṣṭrapālaparipṛcchā). Toh 62, Degé Kangyur vol. 42 (dkon brtsegs, nga), folios 227.a–257.a.
5.2. Tài liệu thứ cấp
Boucher, Daniel., Bodhisattvas of the Forest and the Formation of the Mahāyāna: A Study and Translation of the Rāṣṭrapālaparipṛcchā-sūtra. Honolulu: University of Hawai’i Press, 2008.
Pedersen, K. Priscilla, “Notes on the Ratnakūṭa Collection”. The Journal of the International Association of Buddhist Studies 3, no. 2 (1980): 60–66.
Vienna Buddhist Translation Studies Group dịch, The Questions of Rāṣṭrapāla (1), truy cập [ngày 16/06/2024]: https://read.84000.co/translation/toh62.html
鎌田 茂雄 Kamata Shigeo (và khác) biên tập,『大蔵経全解説大事典』(Bách khoa toàn thư giải thích toàn bộ Đại tạng kinh), 雄山閣, 1998.
Kazunobu, Matsuda, “Śrīmālādevīsiṃhanānirdeśa” in Buddhist Manuscripts I. Oslo: Hermes Publishing, 2000, pp. 65–76.
Péter-Dániel Szántó, *Tathāgatācintyaguhyanirdeśasūtra: A formatted diplomatic transcript of the Sanskrit ms. (The Asiatic Society, Kolkata, G10765). Universiteit Leiden: Open Philology Project, version 1.0, 11.12. 2021.
[1] Phần Giới thiệu này, trừ mục 3 thì các mục 1, 2 và 4, chủ yếu được soạn dịch từ phần Introduction trong Vienna Buddhist Translation Studies Group dịch, The Questions of Rāṣṭrapāla (1), truy cập [ngày 27/11/2024]: https://read.84000.co/translation/toh62.html
ĐỐI CHIẾU PHẠN - TẠNG - HÁN - ANH
Xem chi tiết xem trong file đính kèm ở trên
Phật điển đối chiếu tập I: Śīlapaṭala (Chương thứ 10 trong Bodhisattvabhūmi)
